“Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy” (Mt 1, 24a)
Suy Niệm Lời Chúa
Thứ Bảy Tuần 2 Mùa Chay
19/03/2022
Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Maria
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu : Mt 1, 16.18-21.24a
Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Ðức Giêsu cũng gọi là Ðấng Kitô. Như thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Ápraham đến vua Ðavít, là mười bốn đời; từ vua Ðavít đến thời lưu đày ở Babylon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Babylon đến Ðức Kitô, cũng là mười bốn đời. Sau đây là gốc tích Ðức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Ðavít, đừng sợ đón Maria vợ ông về, vì thai nhi được cưu mang nơi bà là do Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy.
Suy niệm 1: Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Cô Maria đã đính hôn với ông Giuse và vẫn ở nhà với bố mẹ.
Phải đợi một năm sau cô mới về nhà chồng, mới làm lễ thành hôn thực sự.
Lạ thay cô lại mang thai khi chưa chung sống với Giuse.
Điều này hẳn làm Giuse bối rối và suy nghĩ nhiều.
Ông không thể tố cáo Maria, cũng không thể lấy cô ấy làm vợ.
Chỉ còn cách là ly dị Maria cách âm thầm kín đáo.
Nhưng Thiên Chúa không nghĩ thế.
Ý định của Ngài được báo với Giuse trong giấc mộng.
“Đừng sợ đón Maria vợ ông về,
vì thai nhi được cưu mang nơi bà là do Thánh Thần” (c. 20).
Giuse hay bị đánh thức vào lúc ông cần nghỉ ngơi.
Phải có lòng tin thế nào Giuse mới dám nhận Maria đang mang thai làm vợ.
Tin thai nhi được Maria cưu mang là “do Thánh Thần” (c. 20),
điều đó không dễ dàng, vì chưa bao giờ xảy ra trường hợp tương tự.
Tin còn là từ bỏ những toan tính và định tâm của mình (cc.19-20)
để vâng phục ý định bất ngờ và khó hiểu của Thiên Chúa.
Điều khiến cho Giuse có một chỗ đứng độc đáo trong lịch sử cứu độ
đó là việc ông đón Maria đang mang thai về nhà mình làm vợ chính thức.
Đơn giản là ông chấp nhận làm đám cưới với Maria.
Đón Maria làm vợ cũng là nhận cả thai nhi trong bụng mẹ làm con.
Giuse là cha khi ông chấp nhận đứng ra đặt tên cho con trẻ (c. 21).
Ai có thể biết được điều gì sẽ xảy ra nếu Giuse cứ muốn âm thầm ly dị Maria?
Giuse đã là chỗ dựa sống còn của ơn cứu độ, là nơi nương tựa của Mẹ và Con.
Nhờ Giuse, Cô Maria không bị mang tiếng ngoại tình,
và bé Giêsu không phải là con hoang, nhưng là con thuộc dòng Đavít.
Đức Giêsu sau này có thể công khai và tự tin đến với dân Ítraen.
Thánh Giuse đã lập gia đình, đã có một mái ấm với người mình yêu.
Ngài sống như một người chồng, người cha bình thường.
Nhưng bên trong lại là những mầu nhiệm.
Ngài không thật sự là chồng của Maria, cũng không thật sự là cha của Giêsu.
Maria không còn là đối tượng để Giuse mê đắm và chiếm hữu,
vì Maria đã thuộc trọn về Thiên Chúa, cả xác lẫn hồn.
Maria là một mầu nhiệm, Giêsu cũng là một mầu nhiệm.
Giuse sống bên những mầu nhiệm, nên chính đời ngài cũng trở thành mầu nhiệm.
Phải đến với mái ấm ở Nadarét ta mới thấy mầu nhiệm ẩn trong cái bình thường.
Chỉ ai biết nhìn thì mới thấy sự thánh thiện phi thường ở đó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn
và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
Suy niệm 2: Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay chúng ta cùng toàn thể Giáo Hội mừng lễ kính thánh Giuse (cách riêng chúng ta cầu nguyện cho các đức Giám mục, các linh mục và tu sĩ cũng như anh em giáo dân nhận thánh Giuse làm Bổn mạng).
1. Đọc kỹ lại Tin mừng để tìm hiểu về Thánh Giuse, chúng ta phải ngạc nhiên về cái vẻ tầm thường bề ngoài của Ngài:
– Làm chủ một gia đình nghèo,
– Làm nghề thợ mộc để nuôi sống gia đình nhỏ bé của mình.
Xét về mặt xã hội lúc bấy giờ thì Giuse cũng như gia đình của ngài là những con người rất tầm thường trong xã hội Do thái.
Nhưng chính cái vẻ tầm thường đó mà chúng ta phải suy nghĩ và cảm động. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Người đã ban cho Giáo Hội một vị thánh cả tầm thường như thế. Và tôi nghĩ không sợ lầm rằng, ngoài những vị thánh lừng danh được Giáo Hội tuyên phong, thì trên thiên đàng còn có rất nhiều những vị thánh mà cuộc đời trần gian của các ngài bề ngoài cũng rất tầm thường như thế. Như vậy thì chúng ta thấy đâu phải những con người tầm thường là những con người không có hy vọng trong nước của Thiên Chúa.
Theo như những hình ảnh chúng ta có thể thấy được đó đây thì Thánh Giuse có bộ râu hình trái tim rất dễ thương, tay cầm cành huệ trắng và mặc áo nhiều màu. Có lẽ vì muốn kính trọng ngài cho nên các họa sĩ đã tô vẽ cho Ngài trở thành dễ thương như thế nhưng nếu chúng ta có dịp nhìn vào một người nông dân Palestine trên truyền hình thì chúng ta có thể thấy được một Giuse hoàn toàn khác: đầu vấn khăn, bộ râu xồm xoàm của người bình dân, tay cầm đục búa thay vì bông huệ trắng, với một bộ áo nông dân màu đất.
Kinh Thánh có nói Giuse thuộc Hoàng tộc David, nhưng là một hoàng tộc đã đến ngày tàn, còn bây giờ ngài chỉ là một anh thợ mộc tầm thường trong một xóm nghèo. Cũng như ngày nay chúng ta thỉnh thoảng gặp những cô “công tằng tôn nữ” …. cũng là dòng dõi vua chúa đấy nhưng là những “Công chúa” đi bán vé số hay đậu phộng rang trên vỉa hè.
Trong Tin mừng, chúng ta thấy Giuse không để lại một lời. Ngài sống với Chúa Giêsu và Đức Mẹ như hình với bóng. Giuse vào đời lúc nào không ai hay, chết lúc nào không ai biết. “Đức Maria đính hôn với một người tên là Giuse”. Kinh Thánh nói về ngài như nói về một người nào đó, một người tầm thường.
Vâng những nét trên đây đã cho chúng ta thấy về một Giuse rất khiêm tốn, thầm lặng, sống chỉ để phục vụ; một con người gần với đại đa số những người bình dân tầm thường như chúng ta.
2. Tuy nhiên nếu đọc kỹ Kinh Thánh chúng ta có thể tìm ra được những nét rất nổi bật nơi con người tầm thường này. Có rất nhiều nhưng tôi chỉ xin nói đến hai nét đặc trưng này: Đó là đức tin và lòng mến của ngài.
Giuse có một đức tin mạnh mẽ lạ lùng, một đức tin tỉnh thức cả trong giấc mơ. Thiên thần chỉ nói với Giuse trong giấc mơ, nhưng ông thức dậy và thi hành ngay, không chút do dự.
Giuse cũng là người có một đức ái rất tế nhị. Sự thường theo luật Do thái, một cô gái có thai ngoài hôn phối thì sẽ bị ném đá chết. Nhưng Giuse chỉ định tâm bỏ Maria cách kín đáo, không một lời trách móc phàn nàn, hay đừng nói đến tố cáo. Đó là dấu chứng của một đức ái đầy kính trọng. Lòng mến của Giuse còn được thể hiện bằng một cuộc đời vất vả, cực nhọc, suốt đời vì vợ con.
Tuy là một người tầm thường, nhưng đời sống của thánh Giuse đã được tô điểm bằng hai nhân đức sáng chói là đức tin và lòng mến như thế.
3. Chúng ta có thể rút ra được bài học nào qua cuộc đời của vị thánh đặc biệt này ? Có rất nhiều bài học nhưng ở đây tôi chỉ xin được nêu lên một vài bài học này
a- Bài học đầu tiên là đừng coi thường những cái tầm thường, những con người bề ngoài rất tầm thường. Kinh nghiệm mục vụ linh mục của tôi cho thấy, phần đông những người thánh thiện lại có một cuộc sống rất tầm thường trước mặt mọi người. Một Gioan XXIII mà Giáo Hội đã phong lên hiển thánh nay mai. Một Têrêsa Calcutta cũng sắp được Giáo Hội tôn phong lên như thế.
b- Bài học thứ hai là thánh Giuse là tấm gương cho mọi người cha gia đình cũng như cho mọi người chúng ta: nên thánh trong việc chu toàn bổn phận tầm thường của mình một cách anh hùng.
Một cô gái kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.
Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi:
– Cháu có sợ chết không ? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.
Cô bé trả lời:
– Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.
Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói:
– Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.
Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng. Điều quan trọng đối với Chúa, không phải là chúng ta đã làm được những gì và làm được bao nhiêu nhưng là chúng ta có cố gắng làm những điều mà chúng ta có thể làm hay không.
Chúa ban cho chúng ta, mỗi người những khả năng khác nhau, trước mắt loài người, những khả năng đó có thể bị kẻ khác coi là tầm thường, nhưng trước mặt Chúa thì không có khả năng nào hơn khả năng nào.
Một người dù đã làm hết sức nhưng vẫn không đạt đến những thành quả được người đời đánh giá cao, thì trước mặt Thiên Chúa người đó đáng được lãnh phần thưởng trọng hậu rồi.
Trước mắt Chúa tất cả chúng ta chỉ là những người quản lý. Nhiệm vụ của người quản lý là đem hết khả năng của mình ra để làm cho số vốn đã được cấp phát sinh lợi ra. Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta có thế.
Suy niệm 3: TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Thánh Giuse vâng lời sứ thần để nhận Chúa Giêsu là con của mình, nhờ thế Chúa Giêsu thuộc về dòng dõi vua Đa-vít. Thánh Giuse là người công chính vì Ngài luôn tôn trọng Thánh Ý Thiên Chúa và tôn trọng Đức Mẹ.
Cầu nguyện: Lạy Cha, con chúc tụng Cha vì Cha đã chọn cho Chúa Giêsu một người cha nuôi thánh thiện là thánh Giuse. Ngài thánh thiện vì ngài là người công chính sống đúng thân phận và vai trò của mình. Đối với Cha, ngài đã luôn tôn trọng Thánh ý nhiệm mầu và kế hoạch cứu độ. Dù hiểu hay không hiểu, ngài vẫn luôn sẵn sàng chờ đợi để thực hiện điều Cha muốn nơi ngài. Đối với Chúa Giêsu, ngài luôn tôn trọng và chu toàn trách nhiệm của người cha nuôi. Đối với Đức Mẹ, dù ngài không hiểu rõ điều đã xảy đến cho Đức Mẹ, nhưng ngài vẫn hết lòng tôn trọng và không muốn tố giác Đức Mẹ.
Lạy Cha, xin Cha giúp con noi gương thánh Giuse để sống cuộc đời công chính. Xin Cha cho con biết tôn trọng Cha để con thờ Cha cho phải đạo. Xin cho con biết tôn trọng mầu nhiệm Thánh Ý Cha để con tuân giữ và vâng phục, dù trí khôn hèn mọn của con chẳng thể hiểu thấu. Xin giúp con tôn trọng người khác, vì mỗi người là một mầu nhiệm mà chỉ mình Cha mới có quyền đi vào. Con cũng muốn tôn trọng cả thiên nhiên, vì Cha muốn con phải làm chủ vạn vật theo kế hoạch của Cha.
Trong đức tin, con nhận ra rằng cả một mầu nhiệm vĩ đại đang bao trùm cuộc sống con. Con chỉ biết chờ đợi Cha lên tiếng mời gọi và hướng dẫn, để con sống đúng thân phận và vai trò của con. Amen.
Ghi nhớ: “Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền”.
Suy niệm 4: Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A- Phân tích (Hạt giống…)
Trong bài trích Phúc Âm này, Thánh Matthêu kín đáo cho biết một số chi tiết quan trọng về Đức Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và Chúa Giêsu:
1. Về Đức Mẹ Maria: một số chi tiết chứng tỏ Maria là một Trinh nữ (do đó đứa con trong bụng Người không phải là con của Thánh Giuse):
– “Maria đính hôn với Giuse” (câu 18): Mt dùng chữ “đính hôn” chứ không phải “kết hôn”.
– “đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần” (câu 18); “vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (câu 20).
2. Về Thánh Giuse: “Là người công chính” (câu 19): “công chính” có 2 nghĩa: a/ nghĩa thông thường là “công bình”, điều gì không phải của mình thì mình không nhận. Giuse biết thai nhi không phải của mình nên không dám nhận làm cha, do đó muốn bỏ đi; b/ nghĩa đạo đức: công chính là tuân theo ý Chúa. Khi được thiên sứ cho biết Thiên Chúa muốn Giuse rước mẹ con Đức Mẹ Maria về nhà mình thì Giuse mau mắn vâng theo.
3. Về Chúa Giêsu: Ngài là một đứa con đặc biệt: “thụ thai “bởi phép Chúa Thánh Thần” (câu 18 và 20), “chính Ngài sẽ cứu dân mình khỏi tội” (câu 21).
B- Suy gẫm (… nẩy mầm)
Thánh Giuse nêu gương cho chúng ta về nhiều điểm:
1. Một người luôn làm theo ý Chúa: theo khuynh hướng tự nhiên, việc tuân theo ý Chúa để nuôi dưỡng Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu là điều rất khó, vì Đức Mẹ Maria không phải là vợ Người đúng nghĩa, và Chúa Giêsu không phải là con ruột của Người. Nhưng Thánh Giuse đã nuôi dưỡng hai Đấng, không phải một cách miễn cưỡng mà hết sức chu đáo.
2. Một ngươi chu toàn nhiệm vụ cách âm thầm: Trong các sách Phúc Âm, chúng ta không nghe Thánh Giuse nói một lời nào, cũng không thấy Giuse được vinh dự gì nổi bật. Lời nói của Người là làm bổn phận, vinh dự của Người là chu toàn bổn phận, niềm vui của Người cũng là chu toàn bổn phận.
3. Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh”. Người đã giữ gìn Đức Mẹ Maria. Người cũng sẵn sàng giữ gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.
4. Có một người làm công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 đồng một tháng.
Sau một hồi vãn cảnh, đoàn người trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.
Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh… Cả thành phố trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân: do người phu quét lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm…
Và ngay hôm đó họ tái dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa. (Trích “Phúc”)
5. ”Này ông Giuse là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20)
6. Học xa…
Mỗi lần tôi về nhà, đám em tôi lại ùa ra tíu tít, mẹ thì hỏi dồn dập khiến tôi không kịp trả lời. Riêng ba chỉ lặng lẽ nhìn tôi, với ánh mắt ấm áp một nụ cười.
Cuộc đời ba là những tháng ngày âm thầm làm việc nuôi chúng tôi khôn lớn. Ba là bệ phóng vững chãi cho chúng tôi vào đời. Mỗi đứa con cứ thế lấn lượt đi lên từ bệ phóng ấy.
Lạy Thánh Giuse, ngày xưa Ngài đã sống một đời âm thầm cho Chúa Giêsu được lớn lên. Xin dạy con biết sống vì và sống cho người khác (Hosanna)
Suy niệm 5: Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Lễ thánh Giuse, Bạn Đức Trinh Nữ (Mt 16.18-21.24a)
Kinh thánh đã xác nhận thánh Giuse “là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Khi gọi Giuse là người công chính, và nhìn vào cuộc sống của Ngài, chúng ta có thể hiểu được nội dung của từ công chính ấy.
- Theo nghĩa thông thường: từ “công chính” có nghĩa là “công bình”, nghĩa là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi, công chính là không dám nhận những gì không phải là của mình. Thánh Giuse định trốn đi khi biết Đức Maria đã mang thai.
Theo lời giải thích xưa kia thì thánh Giuse trốn đi vì nghi ngờ Đức Maria bất trung. Nhưng theo các nhà chú giải mới thì thánh Giuse định bỏ trốn, vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm Cha Đấng Cứu Thế. Chức vị làm Cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giuse thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thế, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế, nên Ngài bỏ trốn.
- Theo nghĩa đạo đức: trước sự kiện Đức Maria thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, mặc dù không hiểu và định tâm rút lui trong âm thầm, để thực hiện kế “đào vi thượng sách” khôn ngoan, nhưng một khi đã được mạc khải cho biết sứ mạng “Cha nuôi” của mình thì Giuse đã mau mắn rước mẹ con Đức Maria về nhà mình.
Nhiệm vụ của thánh Giuse là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Chu toàn với sự tinh tế, kính cẩn, nâng niu. Hãy nhìn cảnh Thánh gia trốn sang Ai cập, Đức Maria bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp hơn. Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giuse kính cẩn nâng niu Đức Maria và Đức Giêsu. Ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà Chúa báo thức dậy trốn sang Ai cập, Ngài cũng thức dậy lên đường tức khắc.
- Ngài là một gia trưởng: thánh Giuse được Chúa trao cho nhiệm vụ coi sóc Đức Giêsu và Đức Maria, gìn giữ gia đình, Ngài đã hết sức chu toàn trong mọi hoàn cảnh trong lúc thuận tiện cũng như trong hoàn cảnh khó khăn.Theo pháp lý, thánh Giuse là Bạn trăm năm của Đức Maria, Ngài là chồng thực sự, mặc dầu không ăn ở với nhau. Ngài cũng phải là Cha của Đức Giêsu mặc dù chỉ là cha nuôi. Cả ba vị đã làm thành một gia đình thực thụ. Người ta thường nói: “Kim chỉ phải có đầu” (Tục ngữ), như vậy trong gia đình Nazareth thì đương nhiên thánh Giuse phải là gia trưởng, và Đức Maria và Đức Giêsu phải vâng lời Ngài với tư cách Ngài là gia trưởng.
Người cha là mái hiên che chắn cho gia đình trước bao giông tố của cuộc đời. Người cha chấp nhận những gian khổ cuộc đời để nuôi dưỡng gia đình.
- Ngài là người cộng tác âm thầm trong công cuộc cứu thế, với vai trò thật mờ nhạt. Kinh Thánh chỉ nhắc đến Ngài với tư cách là một bác thợ mộc ở Nazareth và là cha của ông Giêsu, thế thôi, rồi Ngài rút vào bóng tối không ai biết đến nữa. Nhưng công dưỡng dục vào bảo vệ thánh gia, được thánh tiến sĩ Bênađô ghi nhận: “Thiên Chúa Cha chọn thánh Giuse không những để làm người an ủi Đức Maria khi gặp gian truân và để làm Cha nuôi Chúa Con mà còn để thánh nhân cộng tác vào công trình của Chúa Cứu Thế là công việc chung cả Ba Ngôi Thiên Chúa”.
- Ngài là đầy tớ trung thành: nếu ơn gọi phát xuất từ sáng kiến của Thiên Chúa và nỗ lực của bản thân để đáp trả lời mời gọi, thì qua bài Tin mừng hôm nay, chiêm ngưỡng thánh Giuse trong dáng dấp “người công chính” cũng cho thấy Thánh Giuse là tôi tớ trung tín một đời, sẵn sàng vâng nghe tiếng gọi và mau mắn thi hành, như một đầy tớ vô dụng, tất cả đều cậy nhờ vào Thiên Chúa (Lc 17,10), sẵn sàng bỏ ý riêng làm theo ý Chúa để cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.
- Ngài có thần thế trước toà Chúa: ngày xưa vua Pharaon nói với dân chúng: “Ite ad Joseph”: hãy đến cùng Giuse, tiên báo Giuse ngày nay: không phải chỉ ban phát gạo thóc mà là muôn ơn. Thánh Giuse có thần thế trước mặt Chúa. Cảm nghiệm điều đó, thánh nữ Têrêsa Avila đã nói: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý, ngài giúp chúng ta trong mọi trường hợp”.
Suy Niêm 6: Lm Đinh Tất Quý
Ngày 19 tháng 3
Mt. 1,16.18-21.24a
Hôm nay chúng ta cùng toàn thể Giáo Hội mừng lễ kính thánh Giuse
1. Đọc kỹ lại Tin mừng để tìm hiểu về Thánh Giuse, chúng ta phải ngạc nhiên về công việc của Chúa. Chúa làm những việc mà con người khó có thể đoán trước được.
* Thường thì để làm một công việc gì, chúng ta thấy con người luôn phải ưu tiên nghĩ đến vấn đề nhân sự. Những tiêu chuẩn người ta đặt ra để tìm kiếm những con người cho phù hợp với những chức danh hay những địa vị cũng thật quan trọng. Trên báo chí ngày này, nhìn vào những bố cáo tuyển dụng chúng ta sẽ thấy rất rõ điều đó.
Ở đây tôi xin đan cử một thí dụ: Ogilvy and Mather là một công ty quảng cáo lớn. Khi muốn lập ra công ty và muốn cho công ty đó hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận, ông David Ogilvy người sáng lập ra công ty đã nghĩ ra một cách làm như thế này: Ông đã cho mời các vị lãnh đạo cộng tác với ông lại, tặng cho mỗi người một con búp bê Nga, bên trong đó có năm tấm hình người theo thứ tự mỗi lúc mỗi nhỏ dần. Trong tấm hình người bé nhất ông dán vào đó một tờ giấy nhỏ có ghi mấy hàng chữ “nếu mỗi người trong chúng ta chọn những cộng sự nhỏ hơn mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty của những người lùn. Nhưng nếu chúng ta chọn những người cộng sự lớn hơn mình, thì lúc ấy Ogilvy and Mather sẽ trở thành một công ty của những người khổng lồ”
Và quả thật, Ogilvy and Mather đã trở thành một trong những công ty quảng cáo lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới.
Những nhà lãnh đạo ngày nay thường cũng làm như vậy. Chọn những con người có trình độ, có kinh nghiệm.
* Khi khởi sự một công trình lớn lao vô tiền khoáng hậu: Công trình cứu chuộc cả loài người để loài người được thoát khỏi ách thống trị tội lỗi thì Thiên Chúa cũng đã không đi ra ngoài khuôn khổ đó. Chúa cũng phải chú trọng đến vấn đề nhân sự. Và những người đầu tiên Thiên Chúa đã chọn đó là ai thì anh chị em đã biết. Đó là Đức Maria và Thánh Cả Giuse.
Chúng ta tự hỏi Chúa đã dựa vào tiêu chuẩn nào để chọn thánh Giuse. Chúa không dựa vào những tiêu chuẩn mà con người thường dựa vào đó để tuyển chọn như trình độ, có khả năng, có kinh nghiệm nhưng Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ tiêu chuẩn Chúa muốn là tiêu chuẩn như thế nào: Thánh Matthêu đã ghi “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính (Mt 1,19)
Vâng, Chúa đã căn cứ vào tiêu chuẩn công chính nơi một người thợ mộc nghèo khó để chọn thánh Giuse cộng tác với Người trong công việc vô cùng trọng đại đó là công trình cứu chuộc loài người.
* Nếu chúng ta có dịp nhìn lại toàn bộ Kinh Thánh thì chúng ta cũng thấy mỗi khi tuyển chọn ai thì Chúa cũng theo tiêu chuẩn ấy.
Đây là một ít thí dụ: Chúa đã chọn ông Dacaria và bà Elizabeth. Thánh Luca ghi: Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì (Lc 1,5).
Chúa chọn Gioan Tẩy Giả. Thánh Marcô cho biết khi Gioan phải đối diện với cái chết “Thật vậy, vua Hê-rô-đê biết ông Gio-an là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe (Mc 6,20).
Vâng đúng là Thiên Chúa đã căn cứ vào tiêu chuẩn công chính để chọn những công tác với Người trong công việc vô cùng trọng đại đó là công trình cứu chuộc loài người.
II. BÀI HỌC
1. Chúa yêu thích sự công chính đạo đức. Tại sao thế? Chúng ta thừa biết một xã hội mà thiếu những con người đạo đức công chính thánh thiện thì xã hội ấy sẽ như thế nào.
Khoảng năm 1994, nghĩa là bốn năm sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ ngay lại chiếc nôi khai sinh của nó là nước Nga. Có hai người Mỹ được mời sang nước này để dạy về đạo đức trong một số trường trung học của họ. Bộ giáo dục của nước này cũng thỉnh cầu họ giảng dạy trong các nhà tù, các xí nghiệp, các sở cảnh sát và cứu hỏa, cũng như tại một viện mồ côi.
Vào năm 1729 Ben Franklin một nhà tư tưởng lớn của Mỹ đã nói những lời như thế này trước một cử tọa đến nghe ông “Nếu chúng ta vẫn chuyên chăm để trở nên vĩ đại như chuyên chăm trở nên tốt lành thì ta sẽ trở nên vĩ đại thực sự và con số những người đáng nể phục sẽ tăng lên rất nhiều. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta nghĩ rằng mình có thể trở nên vĩ đại mà không cần có sự đạo đức” rồi như dằn từng tiếng ông khẳng định “Và tôi khẳng định rằng không bao giờ có một con người thật sự vĩ đại mà đồng thời lại không thật sự đạo đức”
Đây là lời của sách Khôn ngoan: “Nếu trên đời này, giàu sang là báu vật ai cũng khao khát, thì còn gì giàu sang hơn đức khôn ngoan? (Kn 8,5)
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng con biết đánh giá các hành động và giá trị của chúng ta theo chuẩn mực của Ngài.
2. Muốn được Thiên Chúa quí chuộng và ban ơn thì không có con đường nào khác hơn là con đường trở nên công chính đạo đức.
Sách Giáo Lý mới số 227 đã viết thật hay: Đối với những ai lo tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Thiên Chúa, Người hứa sẽ ban cho họ đủ mọi sự. Mọi sự đều là của Chúa: ai có được Thiên Chúa thì có mọi sự, miễn là Thiên Chúa có người ấy (T. Cyprien 21).
Thánh Augustinô nói: “Sống công chính tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực mình.” Chúng ta dành cho Người một tình yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ), không gì lay chuyển nổi (nhờ can đảm), chỉ vâng phục một mình Người (nhờ công bình), luôn tỉnh thức để khỏi sa vào cạm bẫy của mưu mô và gian dối (nhờ khôn ngoan)” Đó là cách sống đẹp lòng Chúa nhất (T.Augustinô những thói quen của Hội Thánh Công Giáo 1,25,46).
Một cô kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.
Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi:
– Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.
Cô bé trả lời:
– Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.
Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói:
– Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.
Vâng Chúa biết rõ lòng của chúng ta. Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng. Điều quan trọng đối với Chúa, không phải là chúng ta đã làm được những gì và làm được bao nhiêu nhưng là chúng ta có cố gắng làm những điều mà chúng ta có thể làm hay không. Thánh Giuse đã làm như thế trong cả cuộc đời của Ngài. Và ngày nay Ngài đã được Chúa ân thưởng vinh quang trên nước trời.