“Các ông đã không để cho lời Người ở mãi trong lòng,
bởi vì chính các ông không tin vào Đấng Người đã sai đến”. (Ga 5,38)
Suy Niệm Lời Chúa
Thứ Năm Tuần 4 Mùa Chay
Ngày 31/03/2022
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gioan: Ga 5, 31-47
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do thái rằng: “Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. Có Ðấng khác làm chứng về tôi và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật. Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gioan, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. Ông Gioan là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian. Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gioan: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi. Chúa Cha, Ðấng đã sai tôi, chính Người cũng đã làm chứng cho tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người. Các ông không giữ lời Người ở lại trong lòng bởi vì chính các ông không tin vào Ðấng Người đã sai đến. Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi. Các ông không muốn đến cùng tôi để được sự sống. Tôi không cần người đời tôn vinh. Nhưng tôi biết: các ông không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các ông không đón nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón nhận. Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được? Các ông đừng tưởng là tôi sẽ tố cáo các ông với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ông chính là Môsê, người mà các ông tin cậy. Vì nếu các ông tin ông Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi. Nhưng nếu các ông không tin các điều ông ấy viết, thì làm sao tin được lời tôi nói?”
Suy niệm 1: Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Để hiểu được bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần đọc từ đầu chương năm.
Đức Giêsu chữa anh bất toại bên hồ nước gần Đền thờ Giêrusalem (cc. 1-9).
Anh được khỏi và vác chõng đi vào ngày sabát theo lệnh Đức Giêsu.
Chuyện đó dẫn đến việc người Do thái chống đối Ngài (c. 16).
Khi nghe Ngài nói: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”
họ tìm cách giết Ngài, vì cho rằng Ngài mắc tội phạm thượng,
dám gọi Thiên Chúa là Cha và coi mình ngang hàng với Thiên Chúa (c. 18).
Không chút sợ hãi, Đức Giêsu khẳng định quyền mình đã nhận được từ Cha:
quyền làm cho kẻ chết sống lại và quyền phán xét trong ngày sau hết (cc. 19-30).
Dù có quyền, lúc nào Ngài cũng là Con làm theo ý Cha, Đấng sai Ngài.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu như người bị đứng trước tòa, bị kết án tử.
Vì không được tự làm chứng cho chính mình,
nên Ngài phải tìm những lời chứng để biện hộ cho lời nói, việc làm của Ngài.
Trước hết là lời chứng của Gioan Tẩy giả (cc. 33-35).
Ông là ngọn đèn làm chứng về ánh sáng, về Đức Giêsu (Ga 1, 8-9).
Nhưng người ta đã không đón nhận lời chứng ấy.
Kế đến là những công việc Cha giao mà Ngài đã hoàn thành (c. 36).
Lẽ ra chúng phải là lời chứng thuyết phục cho thấy Ngài được Cha sai.
Cuối cùng là lời chứng của Chúa Cha (cc. 37-40).
Cha làm chứng bằng những lời của Cha trong Kinh Thánh (c. 39).
Nhưng họ không giữ lời Cha ở lại trong lòng,
nên chẳng tin, cũng chẳng muốn đến với Đấng được Cha sai (c. 38. 40).
Những lời chứng trên đây trở nên vô ích
đối với những ai không có lòng yêu mến Thiên Chúa (c. 42),
không tìm vinh quang Thiên Chúa mà chỉ tôn vinh lẫn nhau (c.44).
Đức Giêsu đã phải chấp nhận sự từ khước này
mà Ngài biết cuối cùng sẽ dẫn đến cái chết.
Làm sao ta có thể ra khỏi những thành kiến để đón lấy sự thật,
ra khỏi những tư lợi ích kỷ để dám tin vào tình yêu,
ra khỏi cái tôi chật hẹp để dám sống cho người khác.
Hãy tin vào Giêsu, Đấng được Cha sai (c. 38).
Hãy đến với Giêsu để được sống (40).
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
- Tagore
(Đỗ Khánh Hoan dịch)
Suy niệm 2: Lm. Giuse Đinh Tất Quý
1. Bài Tin Mừng vừa nghe cho chúng ta thấy, giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái đang có những hiểu lầm về nhau. Những người Do Thái trước đó đã có thật nhiều cảm tình với Chúa, nhưng bây giờ họ đã bắt đầu lạnh nhạt. Tuy đã đồng tình với Chúa về nhiều vấn đề, nhưng khi Chúa đề cập đến vấn đề nguồn gốc thần linh của Ngài thì lập tức, họ đã phản đối chống lại một cách quyết liệt.
Tại sao lại có thảm kịch này ? Thưa, vì người Do Thái chỉ muốn có một Đấng Cứu Thế hợp với sự hiểu biết của họ. Như vậy, vấn đề ở đây là, dù có Kinh Thánh nhưng nếu đọc Kinh Thánh theo ý của ta thì chẳng bao giờ ta có thể thấy và hiểu được Thiên Chúa. Ngược lại, nếu ta đọc Kinh Thánh dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần thì mới có thể được Chúa giúp để nhận ra Người.
Tại một làng thuộc vùng Lorraine, miền Đông Bắc nước Pháp, có một nông dân không có niềm tin, một hôm gặp ông thầy giáo làng đang đi dạo mát, ông ta tiến lại trước mặt ông thầy này và gây sự bằng một giọng đầy khiêu khích:
– Hôm qua, thầy đã dạy cho bọn trẻ trong làng những điều hay quá: “Nếu ai đánh ngươi má bên mặt, thì hãy chìa luôn cả má trái cho nó”(Mt 5,39).
– Lời đó đâu phải là do tôi – Thầy giáo đáp – đó là điều Chúa nói trong Tin Mừng chứ!
Thầy giáo vừa dứt lời thì người nông dân kia bất ngờ tát cho thầy hai cái, vì từ lâu anh đã có nhiều điều tức khí với thầy giáo làng.
Cách đó không xa, ông chủ tịch xã đang đi với nhân viên, nhìn thấy cảnh đó, liền nói với một anh nhân viên:
– Josepth, anh lại đó xem, hai người đang tranh chấp với nhau chuyện gì vậy ?
Lúc Josepth vừa đến gần 02 người, thì cũng chính là lúc thầy giáo làng giơ tay giáng trả hai cái tát nẩy lửa vào mặt người nông dân, kèm theo lời trích dẫn của Kinh Thánh:
“Cũng có lời chép: Ngươi lấy đấu nào mà đong cho anh em, thì cũng sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Một đấu được lắc, được dằn sẽ đổ xuống trên lưng ngươi”. (Lc 6,38).
Josepth vội vàng trở lại báo cho ông chủ tịch:
– Thưa ông, chẳng có chuyện gì đáng kể. Họ đang tranh nhau chú giải Kinh Thánh!
Vâng, nếu chúng ta đọc Kinh Thánh với một tà ý thì Kinh Thánh sẽ chẳng mang lại ích lợi gì cho chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta đọc với một sự thành tâm thì Lời Chúa sẽ trở thành luơng thực, thành ánh sáng cho cuộc đời của ta.
2. Như vậy, muốn đọc Sách Thánh để hiểu được Chúa, ta phải bỏ đi hết mọi thành kiến có sẵn, phải khiêm tốn để cho Lời Chúa tra vấn mình, phải can đảm từ bỏ những gì Chúa đòi hỏi, và phải kiên trì thực hiện những điều Chúa dạy.
Ngày nọ, có một nhóm người nghĩ là “Thiên Chúa” đã chết nên họ muốn cử hành lễ nghi an táng cho Người.
Họ nhờ bác phu già trông coi nghĩa trang đào sẵn cho họ một cái huyệt. Hiện diện trong buổi lễ, ngoài bác phu già, còn tất cả đều là những vị thuộc giai cấp tri thức trong xã hội: triết gia, giáo sư, văn sĩ, kỹ sư v.v…
Khi người chủ trì cất tiếng khai mạc lễ nghi an táng thì bác phu già kêu lên:
– Không thể được, vì quan tài chưa đến.
– Thiên Chúa vô hình thì cần gì đến quan tài để tẩm liệm.
Một vài người chạy lại kéo ông ra xa, nhưng vừa vùng vẫy ông vừa la lớn:
– Không, Thiên Chúa không chết! Thỉnh thoảng khi không ngủ được tôi vẫn hay ra đây ngồi và nghe tiếng tim Ngài đập. Nếu không tin, tối nay quí vị hãy tụ họp lại đây, quí vị sẽ thấy.
Động tính hiếu kỳ, họ bỏ dở buổi lễ và hẹn nhau ban tối sẽ quay trở lại. Tối hôm ấy, tiếng ồn ào bên ngoài vọng lại khiến cho họ không thể phân biệt đâu là tiếng đập của quả tim Thiên Chúa đâu là tiếng của những thứ khác. Sau đó họ dời điểm tụ họp đến một vùng quê. Thế nhưng, vắng tiếng động của thành phố thì lại có tiếng của côn trùng. Sau cùng, họ quyết định gặp lại nhau một đêm khác trong sa mạc. Giữa bầu khí tĩnh mịch của sa mạc về đêm, mọi người đều cảm thấy mình được cất khỏi những gánh nặng lo toan, cũng không bị chi phối bởi một tiếng động nào.
Trở về với cõi lòng, họ chăm chú lắng nghe. Tâm hồn họ như hòa nhập với không trung bát ngát. Ngồi thinh lặng nhưng họ cảm thấy gần nhau. Bỗng một người la to:
-Tôi đã nghe thấy!
Và, nhiều người khác phụ họa:
– Có, tôi cũng đã nghe.
Một người khác nữa phân tích:
– Âm thanh của nó giống như âm thanh của mỗi lần tôi cố gắng trở nên hoàn thiện.
Họ đã tin lời nói của bác phu già, và nhất là đã tìm lại được niềm tin nơi Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên thật đơn sơ bé nhỏ,
để có thể nghe được tiếng Chúa nói,
và thấy được hiện diện của Chúa trong suốt đời con. Amen.
Suy niệm 3: TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Để chứng minh mình là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã luôn thi hành Thánh Ý Cha. Đối với người Kitô hữu cũng vậy, thực thi Thánh Ý Chúa là cách thế biểu lộ chúng ta là con cái Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa được mọi người khen Chúa nói hay. Lúc Chúa làm phép lạ, mọi người trầm trồ thán phục Chúa. Nhưng dù nói gì, Chúa không bao giờ nói theo ý riêng mình, mà chỉ nói lời Tin Mừng phục vụ Ý Cha. Làm gì, Chúa cũng làm để tôn vinh Danh Cha. Ý Chúa Cha là kim chỉ nam cho cuộc đời của Chúa trên trần gian này. Xin Chúa cho con luôn biết nói sao cho phù hợp với Ý Chúa, làm gì cũng làm sao cho vừa lòng Chúa.
Chính nhờ sự tận hiến ý riêng để thi hành Ý Cha mà cuộc đời Chúa trở nên một hiến tế đẹp lòng Cha, có sức cứu độ toàn thế giới, trong đó có mỗi người chúng con. Chính nhờ cuộc đời tận hiến đó, tận hiến đến chết trên Thánh giá, mà Chúa được Cha siêu thăng phục sinh và cho vinh hiển bên Cha. Nhờ thấy vậy, các Tông đồ nhận ra Chúa thật là Chúa và họ đã dám sống chết theo Chúa.
Lạy Chúa, con biết mỗi Kitô hữu chúng con dù có nói hay, dù có làm giỏi, mà không nói và làm vì Danh Chúa và theo Ý Chúa, thì cũng tựa thùng rỗng kêu to, phèng la inh ỏi. Khi đó, đời con chẳng có giá trị gì trước mặt Chúa cũng như chẳng đủ sức thuyết phục đươc ai tin theo Chúa.
Xin Chúa cho con luôn biết nhìn lên Thanh giá Chúa, nơi Chúa biểu lộ tột đỉnh lòng vâng phục Ý Cha, để nhờ đó con thêm can đảm vâng theo Ý Chúa trong cuộc sống thường ngày. Xin cho con luôn nhớ tới sự phục sinh của Chúa để thêm dứt khoát và tin tưởng chọn lựa Ý Chúa hơn chọn ý riêng mình. Amen.
Ghi nhớ: “Có người tố cáo các ngươi, đó là Môsê, người mà các ngươi vẫn tin tưởng”.
Suy niệm 4: Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Hạt giống…
1. Bài đọc 1: mô tả ông Môisê là một người rất có uy tín đối với Chúa. Khi dân Israel đúc tượng con bê vàng, Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ muốn tiêu diệt họ. Nhưng nhờ Môisê cầu xin, Thiên Chúa đã nguôi giận và không phạt họ nữa.
2. Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu tiếp tục tranh luận với những người biệt phái sau khi việc Ngài chữa một người bất toại vào ngày sabát. Ngài đã nói với họ rằng sở dĩ Ngài làm việc trong ngày sabát vì Ngài noi gương Thiên Chúa là Cha của Ngài (Bài Tin Mừng hôm thứ tư). Họ không tin, Chúa Giêsu lại nói: chính Thánh kinh và Môisê (phải hiểu trong Cựu ước) làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Messia, Con Thiên Chúa. Nếu họ tin Môisê thì họ phải tin lời chứng của Môisê.
B. Nẩy mầm…
1a. “Trong khi toàn bộ Thánh kinh Cựu ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, nhưng vì thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, các người Do Thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa và lắng nghe lời Ngài qua khuôn mặt và lời nói của Chúa Giêsu, và do đó không nhận đón Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến” (“Mỗi ngày một tin vui”). Tại sao có thảm kịch này ? Vì người Do Thái luôn sẵn một hình ảnh về Đấng Messia, hợp với sở thích của họ. Cái hình ảnh ấy che mất hình ảnh đích thực của Đấng Messia. Ta thấy đó, người ta có thể đọc Sách Thánh mà không tìm thấy Thiên Chúa nhưng chỉ tìm thấy chính mình.
1b. Một thợ săn lạc trong rừng nhiều lần. Một người bạn mua cho anh ta một la bàn. Dù vậy anh thợ săn trẻ vẫn bị lạc. Khi tìm thấy, người bạn hỏi xem anh ta có mang theo la bàn không. Anh bảo có.
-Tại sao anh không dùng nó ?
-Tôi không dám. Tôi muốn đi về hướng Nam và cố giữ cho kim chỉ hướng Nam. Nhưng không được. Nó luôn lắc qua và chỉ hướng Bắc.
Nhiều người mong Thánh kinh chỉ hướng họ muốn đi, hơn là hướng Thánh kinh muốn họ đi. (Góp nhặt).
1c. Có lần nhà văn Mart Twain nói: “Nhiều người lấy làm buồn phiền vì không hiểu một đoạn Thánh kinh nào đó. Phần tôi, tôi thấy rằng những đoạn Thánh kinh làm tôi bối rối nhất là những đoạn mà tôi cho là mình đã hiểu”.
2. Muốn đọc Sách thánh mà thấy được Chúa, ta phải bỏ đi hết mọi thành kiến có sẵn, phải khiêm tốn để cho Lời Chúa tra vấn mình, phải can đảm từ bỏ những gì Chúa đòi hỏi, và phải kiên trì thực hiện những điều Chúa dạy.
Suy niệm 5: Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Những chứng từ về Chúa Con (Ga 5,31-47)
- Khi chữa bệnh cho người bất toại ở bờ hồ Bếtsaiđa vào ngày sabat, người ta hạch hỏi Đức Giêsu đã lấy quyền nào mà làm như vậy. Đức Giêsu trả lời cho họ biết: Ngài noi gương Thiên Chúa là Cha của Ngài mà làm như vậy. Họ không tin. Đức Giêsu lại nói: chính Thánh kinh và Maisen (phải hiểu là Cựu ước) làm chứng rằng Ngài chính là Messia, Con Thiên Chúa. Nếu họ tin Maisen thì họ phải tin lời chứng của Maisen.
- “Trong toàn bộ Thánh kinh Cựu ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, nhưng vì thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, các người Do thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa, và do đó không đón nhận Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến” (Mỗi ngày một tin vui). Tại sao có thảm kịch này ? Vì người Do thái nuôi sẵn một hình ảnh về Đấng Messia, hợp với sở thích của họ. Cái hình ảnh ấy che mất hình ảnh đích thực của Đấng Messia. Ta thấy đó, người ta có thể đọc Sách thánh mà không tìm thấy Thiên Chúa nhưng chỉ thấy chính mình.
- Người ta thường nói: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nắm được thiên cơ – thiên thời – là yếu tố quan trọng hạng đầu của sự thành công. Thực tế cho thấy, nhiều người, vì không biết tận dụng thời cơ, nên đã rơi vào thất bại đáng tiếc, dù họ có rất nhiều điều kiện thuận lợi.
Mọi người đều khao khát gặp Đấng Cứu Độ để được sự sống đời đời. Qua Kinh thánh, người Do thái được Thiên Chúa ưu ái cho biết Đấng Cứu Thế sẽ xuất hiện trong dân tộc của họ. Vì thế, họ đã kiên nhẫn chờ đợi Người suốt cả hàng ngàn năm. Tuy nhiên, chỉ vì thành kiến sai lầm và cố chấp không chịu tin, nên khi Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ đích thực đến, họ không nhận ra, nên đã bỏ lỡ cơ hội để gặp gỡ và yêu mến Người.
- Mặc dù Đức Giêsu đã làm đủ cách để minh chứng Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Chúa Cha sai đến, nhưng người Do thái vẫn không chịu tin để được sống, để khỏi bị xét xử và bị luận phạt. Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu phải nại đến ba nhân chứng có uy tín để làm chứng cho Ngài, đó là Chúa Cha, Gioan Tẩy giả và Thánh kinh, bởi vì theo luật thời đó, phải có hai ba nhân chứng thì mới được chấp nhận.
- Trước hết, chính Thiên Chúa Cha làm chứng cho Đức Giêsu. Chúng ta thấy có hai lần Chúa Cha tuyên bố: “Đây là Con Ta rất yêu dấu”, một lần khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, và một lần khi Đức Giêsu biến hình trên núi Taborê. Đó là bằng chứng hùng hồn cho thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Chúa Cha muốn mọi người tin Đức Giêsu thật là Con Ngài.
- Thứ đến, Gioan Tiền Hô làm chứng cho Chúa. Tin mừng nói: “Có một người, tên là Gioan, ông đến để làm chứng, để chứng thật về ánh sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin”. Chính Gioan đã làm chứng cho Đức Giêsu bằng sự tự khiêm tự hạ: “Tôi không đáng cởi dây giày cho Đấng đến sau, nhưng đã có trước tôi”. Rồi khi Đức Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói cho các môn đệ: “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Sau hết, Gioan đã làm chứng cho Chúa bằng sự nhỏ đi, bằng cái chết của mình.
- Sau cùng, Kinh thánh chép về Đức Giêsu và chính Đức Giêsu đã thực hiện như lời Kinh thánh chép về mình. Đáng lẽ Kinh thánh là chứng từ có giá trị nhất để người Do thái tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, vì họ vẫn công nhận Kinh thánh là lời hứa của Thiên Chúa; nhưng rất tiếc họ đã đọc Kinh thánh hằng ngày, đã nghiền ngẫm Kinh thánh mà không nhận ra rằng Đức Kitô đã được Chúa Cha sai đến để cứu họ.
- Tóm lại, mặc dầu Đức Giêsu đã đưa ra những bằng chứng xác thực để minh chứng Ngài là Đấng Cứu Thế, nhưng người Do thái vẫn không nhìn nhận Ngài. Tại sao vậy ? Thưa vì họ thiếu ý hướng ngay lành khi đi tìm Lời Chúa, rồi họ lạ tự cao tự mãn, làm cho họ thành những người cố chấp không tin.
Không chỉ quở trách người Do thái cố chấp không tin, hôm nay Chúa cũng đang chất vấn và quở trách chúng ta về cách sống “thực dụng” của mình mang những dấu ấn không tin một cách thực tiễn, khi chúng ta khước từ Thiên Chúa để chạy theo vật chất, những danh vọng, những đam mê trên thế
gian làm chúng ta xa dần Thiên Chúa – hạnh phúc đích thực.
- Truyện: Chó cứ sủa, trăng vẫn sáng
Vị thẩm phán đến thi hành nhiệm vụ tại một thị trấn nọ, ông thường bị một luật sư kiêu căng ở đó chế nhạo, khích bác.
Tại một bữa ăn tối, có người hỏi vị thẩm phán sao không có biện pháp mạnh đối với viên luật sư kia. Vị thẩm phán bèn dừng bữa, một tay chống cằm, một tay để trên bàn, kể chuyện:
– Chỗ tôi ở có một bà góa nuôi một con chó. Con chó thật xinh, nhưng có tật là hễ thấy ánh trăng là nó tru lên. Có khi suốt cả đêm.
Kể tới đó, ông ngừng lại và ăn tiếp. Tò mò, một người hỏi:
– Này ông thẩm phán, rồi con chó và mặt trăng ra sao ?
– Con chó cứ tru và mặt trăng cứ tiếp tục tỏa sáng.