“Khi các ông giương cao Con Người lên,
bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8, 28)
Suy Niệm Lời Chúa
Thứ Ba Tuần 5 Mùa Chay
Ngày 05/04/2022
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gioan: Ga 8, 21-30
Suy niêm 2: Lm. Giuse Đinh Tất Quý
1. Chúa Giêsu nói với những người Do Thái: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Tôi là ai” (Ga 8,28). Như thế, việc Chúa Giêsu chết trên Thập Giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.
Vậy, khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng nếu biết nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ “được” cứu độ. Ngược lại, ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn Địa đàng.
Đức Cha Fulton Sheen, một diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình Hoa Kỳ đã tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ như sau:
Tôi ra khỏi nhà để hưởng chút ánh sáng mặt trời, tôi gặp một người đang quằn quại trên Thập Giá, tôi dừng lại và đề nghị:
– Xin cho phép tôi được giúp ông xuống khỏi Thập Giá
Nhưng người ấy trả lời:
– Hãy để cho tôi yên. Hãy để nguyên những cái đinh trong lòng bàn tay và bàn chân của tôi. Hãy để nguyên những gai nhọn trên đầu và lưỡi dòng trong trái tim tôi. Tôi không tự mình xuống khỏi Thập Giá, bao lâu những người anh em tản mác khắp nơi của tôi chưa hợp nhất với nhau.
Tôi liền hỏi người ấy:
– Ông muốn tôi làm gì cho ông ?
Người ấy trả lời:
– Hãy đi khắp thế giới, và bắt gặp bất cứ ai hay nói với họ rằng: “Có một người đã chịu đóng đinh trên Thập Giá”.
Vâng, có một người đã chịu đóng đinh trên Thập Giá. Người đó chính là Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.
Trong thư thứ nhất gửi cho Giáo đoàn Côrinthô, Thánh Phaolô đã nói về Thập Giá rất hay: “Thật thế, lời rao giảng về Thập Giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng tôi là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa”. (1Cr 1,18)
Thánh Phêrô cho biết thêm: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây Thập Giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương để anh em được chữa lành”. (1Pr 2,24)
2. Nhìn lên Thập Giá, ta có thể thấy rất nhiều điều:
Thấy tội lỗi của mình.
Thấy tình thương của Chúa.
Thấy giá trị của đau khổ.
Thấy ơn cứu độ.
Thấy giải pháp cho vấn đề sự dữ
Thánh Phanxicô Assisi đã nói rất hay về vấn đề này: “Không phải quỉ dữ đã đóng đinh Ngài trên Thập Giá; chính bạn cùng với chúng đã đóng đinh Ngài vào Thập Giá; và còn đang đóng đinh Ngài nữa, nếu bạn cứ thích thú ở mãi trong thói xấu và tội lỗi của bạn”. (T.Phanxicô Assisi, khuyến dụ 5,3).
Trong tuyển tập ngụ ngôn của hai anh em người Đức vào thế kỷ thứ 19, người ta đọc được câu chuyện có nội dung như sau:
Hai cha con nọ đã thỏa thuận ngầm với nhau là người con được tự do làm bất cứ điều gì nó muốn. Chỉ có điều là mỗi khi nó làm một hành động xấu thì nó phải đóng một cây đinh vào cánh cửa. Ngược lại, khi làm được một hành động tốt thì nó có quyền nhổ một cây đinh đi.
Chưa đầy một năm, cánh cửa không còn một chỗ nào trống để đóng đinh vào được nữa. Người con chợt nhận ra cuộc sống quá xuống dốc của mình. Nó mới hồi tâm và quyết định tu sửa. Không đầy một năm sau, mọi cây đinh đều lần lượt được gỡ ra khỏi cánh cửa. Ngày cây đinh cuối cùng được tháo gỡ khỏi cửa người cha sung sướng chạy đến ôm lấy đứa con của mình. Ông vui mừng đặt trên trán đứa con những nụ hôn hạnh phúc. Thế nhưng, thật là lạ lùng, không những đứa con không tỏ ra một cảm xúc vui sướng nào mà còn đẩy người cha ra và khóc òa lên. Người cha ngạc nhiên thốt lên:
– Tại sao con khóc ? Tất cả mọi cây đinh đã được nhổ ra khỏi cánh cửa, con không cảm thấy hạnh phúc vì đã sống tốt đẹp hơn sao ?
Đứa con thổn thức:
– Thưa cha đúng thế, nhưng cho dầu những cây đinh đã nhổ đi rồi, nhưng chúng vẫn còn để lại những cái lỗ trên đó.
Trong cuộc sống, nhiều người trong chúng ta cũng như thế. Chúng ta đã chạy đến tòa cáo giải. Chúng ta đã tin là Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Thế nhưng, nhiều khi chúng ta không thể vượt qua được những “Mặc cảm tội lỗi”. Chính những mặc cảm này nhiều khi dày vò chúng ta. Mỗi lần như thế chúng ta hãy nhớ lại tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của Thập Giá,
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin lấy niềm vui của Người
mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương,
bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
Suy niệm 3: TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa Giêsu không thuộc thế gian này. Người là Đấng Hằng Hữu từ nơi Chúa Cha mà đến để dạy ta sự thật và cứu ta khỏi chết. Cần tín nhiệm vào Người để khỏi chết trong tội.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, biết bao tôn giáo dầy công đi tìm Thiên Chúa. Họ phải vất vả lắm mới biết được đôi điều mờ nhạt về Thiên Chúa. Trong khi ấy, Chúa đã đến giữa loài người chúng con để dạy cho chúng con biết sự thật về Thiên Chúa tình yêu. Đó là sự thật hoàn hảo và vững chắc, bởi vì Chúa là Thiên Chúa Hằng Hữu từ cung lòng Chúa Cha mà đến, để tỏ cho chúng con thấy khuôn mặt thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa rất sống động và đầy lòng yêu thương. Con hết lòng cảm tạ tri ân Chúa.
Lạy Chúa, chỉ vì yêu thương và muốn giải phóng chúng con khỏi vòng u mê của tội lỗi nên Chúa đã tỏ mình cho con. Xin Chúa giúp con sống xứng đáng với tình thương Chúa bằng cách bước đi theo chân lý của Chúa. Chân lý của Chúa sẽ đưa con vào tận cung lòng Chúa Cha để được trọn tình yêu của Người. Chân lý của Chúa cũng sẽ giúp con bước đi giữa đời trong bình an, trong niềm vui và hy vọng. Xin Chúa đừng để con lìa xa Chúa bao giờ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa Cha luôn ở với Chúa vì Chúa luôn làm những điều đẹp Ý Cha. Ước gì con luôn biết làm những điều đẹp lòng Chúa để được Chúa ở cùng và ban tràn đầy ơn phúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con được mãi mãi trung thành với Tin mừng của Chúa và tìm được niềm hạnh phúc trong cuộc đời theo Chúa. Xin cho con biết mở rộng lòng để đón nhận Lời Chúa và biết quảng đại sống theo Lời Hằng Sống. Xin cho con có một tâm hồn sẵn sàng rộng mở như Samuen. “Lạy Chúa, xin hãy phán dạy vì tôi tớ Chúa đang sẵn sàng lắng nghe”. Amen.
Ghi nhớ: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”.
Suy niệm 4: Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Phân tích (Hạt giống…)
1. Bài đọc 1 kể chuyện con rắn đồng: Khi đó dân Do Thái đang đi trong sa mạc. Vì khổ cực và thiếu thốn, họ luôn miệng trách Môsê và còn trách cả Chúa. Chúa cho những con rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Khi đó họ kêu cầu Môsê. Chúa bảo Môsê đúc một con rắn đồng treo lên cây, kẻ nào bị rắn lửa cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được cứu sống.
2. Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng là hình ảnh tiên báo. Ngài nói với những người Do Thái: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. như thế việc Chúa Giêsu chết trên Thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.
B. Suy niệm (…nẩy mầm)
1. Chính khi Chúa Giêsu “bị” giết chết trên cây Thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho loài người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên thập giá Chúa Giêsu là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Hãy suy nghĩ thêm về cái nghịch lý “bị” và “được” này.
2. Nhìn lên Thập giá, ta có thể thấy rất nhiều điều: Thấy tội lỗi của mình. Thấy tình thương của Chúa. Thấy giá trị của đau khổ. Thấy ơn cứu độ. Thấy giải pháp cho vấn đề sự dữ…
3. Một bà góa đến xin Cha sở chứng nhận để bà được trợ cấp, vì con trai bà đi lính và đang phục vụ ở nước ngoài. Cha sở chợt nghĩ đến sứ điệp Thánh kinh nên nói với bà: Có phải công lao của bà đáng lãnh số tiền đó ? Không ạ! Đó là công lao của con trai con. Cháu muốn con được hưởng. Con chỉ việc kí tên và lãnh tiền. Phải, cũng như không phải công lao của bà mà bà được lãnh ơn cứu độ, mà đó là công lao của Con Thiên Chúa trên núi Canvê. Ngài muốn bà hưởng công lao đó. Bà chỉ việc kí tên và lãnh nhận (Góp nhặt).
Suy niệm 5: Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Tình thương và tội lỗi (Ga 8,21-30)
- Sau câu chuyện về người đàn bà phạm tội ngoại tình, Đức Giêsu ở lại Đền thờ và trong khi tranh luận với người Do thái, Ngài đã báo trước cái chết và ơn cứu rỗi của Ngài.
Qua câu chuyện con rắn đồng trong Cựu ước, Đức Giêsu cho họ biết chính Ngài là Đấng mà con rắn đồng là hình ảnh tiên báo. Ngài nói với những người Do thái: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế, việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao, để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.
- Ngài là ai? Một lần nữa, Đức Kitô muốn cho những người biệt phái hẹp hòi và cứng lòng biết Ngài là ai? Và Đấng mà họ muốn loại trừ bằng mọi giá, nhưng Ngài lại thong dong đi lại theo ý mình. Đấng mà họ lên án là kẻ tội lỗi khi mà chính họ sẽ chết trong tội lỗi của mình, và Ngài không ngại gì nói cho họ biết điều ấy. Đấng sẽ lên trời, trong khi đó họ sẽ ở lại dưới đất. Đấng mà họ sẽ treo cao trên thập giá, ngỡ rằng có thể loại bỏ Ngài mãi mãi, nhưng ngược lại, họ đã nâng Ngài lên vinh quang, cho đến muôn đời. Đức Kitô nói: “Nếu các ông không tin, các ông sẽ mang tội lỗi mà chết”. Họ không tin Đấng không tự mình làm điều gì nhưng chỉ nói điều Cha đã dạy, vì Ngài là Thiên Chúa cũng như Cha Ngài.
- “Khi các ông giương Con Người lên, bấy giờ sẽ biết Ta Hằng hữu”.
Sử dụng ngôn ngữ biểu tượng, bài Tin mừng hôm nay là lời tiên báo của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn của Ngài sắp chịu. Khác với ba lần nơi các Tin mừng nhất lãm tiên báo cái chết một cách rõ ràng là Đức Giêsu sẽ lên Giêrusalem chịu khổ nạn, thì Tin mừng thứ IV cũng tiên báo ba lần với cách nói: “Con Người được “giương lên cao” (x.Ga 3,14; 8,28; 12,32). Con Người được giương lên cao, nghĩa là Đức Giêsu sẽ bị treo lên trên thập giá, để nhờ công ơn cứu chuộc qua khổ giá, mà Ngài nâng mọi người lên cao khỏi thế gian, nâng cao lên cõi trời với Ngài.
Theo chiều ngang, với cách nói Tin mừng nhất lãm rằng ai muốn theo Chúa thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo. Còn theo chiều dọc, Tin mừng thứ IV lại nói theo chiều đi lên, không chỉ vác mà còn phải được treo lên, nghĩa là cùng phải đóng đinh chính mình vào thập giá như Thầy. Như vậy, dù “đi theo” hay “treo lên”, thì Kitô hữu cũng chung một phương thế duy nhất là phải qua thập giá mới đạt đến ơn Cứu Độ (Theo Hiền Lâm).
- Trong cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và những người biệt phái, Ngài mạc khải cho họ biết: Ngài là Thiên Chúa xuống thế làm người, nên giống chúng ta hoàn toàn, chịu đóng đinh và chết trên thập giá để cứu độ con người, đem lại sự giao hoà giữa con người với Thiên Chúa.
Như vậy, Ngài mạc khải sứ mạng thiên sai của chính mình, và mạc khải mối tương quan chặt chẽ giữa Ngài và Thiên Chúa Cha: “Ta không tự mình làm điều gì. Điều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Đấng đã sai Ta đang ở với Ta. Ngài không để ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm đẹp lòng Ngài”. Cho nên, người tin nhận Đức Giêsu thì cũng phải tin nhận Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai
Ngài xuống trần gian làm người và cứu chuộc nhân loại, như Giáo hội tuyên tín từ thời các Tông đồ: vì loài người chúng ta, và để cứu rỗi chúng ta, người đã từ trời xuống thế.
- Vì thế, khi chiêm ngắm thập giá của Đức Giêsu, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về bóng tối của tội lỗi vẫn còn rình rập trong cuộc sống chúng ta. Đó là hai điều chúng ta cần suy nghĩ nhiều trong Mùa Chay và nhất là trong Tuần Thánh sắp tới. Ngoài ra, hãy sống đạo thực thụ chứ đừng mang tên là Kitô hữu mà lại có cách sống phản lại với danh hiệu cao quí đó. Chúng ta hãy cố gắng là “chứng nhân”của Chúa trong cách sống, đừng bao giờ thành “phản chứng” kẻo làm ô danh Chúa và Hội Thánh
- Truyện: Đừng trở thành phản chứng
Trong chương trình buổi tối của một đài truyền hình Hoa Kỳ, một cô gái điếm đã được mời phát biểu ý kiến dựa theo một số câu hỏi của một phóng viên truyền hình. Cô gái ấy trang điểm thật diêm dúa và tỏ ra không những bình tinh, mà còn có thái độ khiêu khích trước những câu hỏi của người phóng viên. Chợt nhìn thấy trên cổ của cô gái có đeo một dây chuyền bằng vàng với một cây Thánh giá nhỏ, người phóng viên thay đổi đề tài để hỏi cô gái. Anh ta hỏi: “Tôi thấy cô có đeo một Thánh giá nhỏ ở
trên cổ. Hẳn cô là người có tôn giáo đúng không?” Khán giả thấy rõ sự bối rối của cô gái điếm. Có lẽ đây là một vấn đề mà cô không bao giờ nghĩ tới. Sau một chút do dự, cô ta liền trả lời: “Tôi không theo đạo nào cả”. Người phóng viên hỏi dồn: “Thế tại sao cô lại mang Thánh giá trên người mình như dấu chỉ của người có đạo? Cô gái điếm thinh lặng cúi nhìn xuống sàn nhà một hồi khá lâu, rồi cô trả lời với những lời lẽ thú tội: “Lúc còn nhỏ tôi có đạo. Nhưng đó là chuyện rất lâu rồi”.
Ngày 5 tháng 4
THÁNH VINH SƠN FERRER
1357-1419
I. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ
Thánh Vinh Sơn Ferrer (Vincent Ferrer) là nhà giảng thuyết lừng danh nhất của dòng Đa Minh. Ngài sinh ra tại Valencia, Tây Ban Nha, ngày 23-1-1350. Từ nhỏ ngài đã học được từ nơi cha mẹ tấm lòng yêu mến người nghèo, ăn chay kiêng thịt vào mỗi ngày thứ Tư và thứ Sáu hằng tuần, và rất mực kính mến Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Sau khi gia nhập dòng Đa Minh năm 1374, ngài đã sớm trở thành một nhà giảng thuyết lừng danh, gặt hái nhiều thành công ở khắp mọi nơi. Ngài khuyên bảo những ai chuyên lo giảng dạy rằng: “Khi giảng dạy, hãy dùng kiểu nói đơn sơ, đưa ra những tấm gương rõ ràng. Phải giảng làm sao cho mỗi một tội nhân cảm thấy được đánh động như thể bạn chỉ giảng cho một mình người đó nghe. Còn bài giảng nào trừu tượng thì khó tác động lên người nghe lắm”.
Thánh Vinh Sơn Ferrer đi rao giảng khắp cả châu Âu, nội dung những lời giảng của ngài chủ yếu nói về tội lỗi, hỏa ngục, sự sống đời sau và ngày chung thẩm gần kề. Đời sống khó nghèo đi đôi với lời rao giảng của ngài đã làm cho nhiều người tin theo. Thánh nhân đi đến đâu là cảm hóa được người khác, đem lại sự bình an, bầu khí thánh thiện và đạo đức cho những nơi ngài đặt chân tới đến đó. Có nhiều người đã quay trở về với Chúa. Riêng tại Tây Ban Nha, thánh nhân đã cảm hóa được hơn 25000 người.
Có nhiều linh mục đồng hành và hỗ trợ sứ vụ của ngài. Với các linh mục này, ngài thường khuyên: “Khi ngồi tòa giải tội, hãy luôn tỏa chiếu đức ái nồng nàn. Dù các cha khuyến khích những tâm hồn sốt sắng hay răn dạy những kẻ cứng lòng phải biết kính sợ Chúa, thì phải nói làm sao cho họ cảm thấy là các cha nói như thế chỉ vì yêu thương họ mà thôi”.
Ngày 5-4-1419, thánh nhân qua đời trong khi đang giảng dạy tại Vannes, Pháp. Ngài được Đức Giáo Hoàng Calixtus III tuyên thánh ngày 29-6-1455.
II. THÁNH VINH SƠN VỊ THÁNH ĐƯỢC ƠN LÀM PHÉP LẠ VÀ NÓI TIÊN TRI
1. Ơn làm phép lạ
Theo sách “Công Vụ Các Thánh” (Acta Sanctorum) ghi nhận thì ngài đã làm 873 phép lạ. Còn riêng ngài thì vào năm 1412, tức là 7 năm trước khi qua đời (1419), trong bài giảng trước công chúng, ngài đã nói rằng: “Thiên Chúa, qua lòng thương xót vô biên, đã cho tôi, người tội lỗi đáng thương, làm 3000 phép lạ”. Ngài còn nói rằng ngài là 1 trong các thiên thần mà thánh Gioan đã nhắc đến trong phúc âm của ngài.
Các tài liệu đương thời cũng kể lại rằng ngài chữa đã 70 người khỏi bị quỷ ám. Thánh Antoninus nói rằng qua thánh Vinh Sơn 28 người chết sống lại.
Chúa lại ban cho ngài được ơn làm nhiều phép lạ, nhiều đến độ cha bề trên phải ra lệnh rằng, từ nay phải có phép của bề trên mới được làm phép lạ.
CHính vì thế mà một hôm kia, đang lúc đi đường, bỗng dưng có một người thợ té từ trên lầu cao xuống đất. Ngài quát bảo ” hãy dừng lại”. Người thợ cứ đứng lơ lửng lưng chừng trên không như vậy. Thánh Vinh Sơn mới chợt nhớ ra rằng mình vừa làm phép lạ, nên nói với anh thanh niên chờ để về nhà dòng xin phép bề trên. Anh thợ cứ chờ trên không trung như vậy cho đến khi ngài trở lại!
Thật là một cuộc đời lạ lùng với những ơn Chúa ban.
2. Ơn nói tiên tri
Ngoài ơn được làm nhiều phép lạ, ngài còn được Chúa ban cho ơn nói tiên tri
Một ngày nọ, đang khi giảng thuyết ở Valencia, thánh nhân mở miệng tuyên bố rằng ngài sẽ chết trong hương thơm thánh thiện ở một đất nước xa quê hương, và thân xác của ngài sẽ làm nhiều phép lạ. Thậm chí, ngài còn chỉ rõ nhiều tình huống ngoại lệ trong tiến trình phong thánh, và đặc biệt là những nhân vật quan trọng sẽ làm chứng để tôn vinh danh ngài.
Sự việc này đã xảy ra nhiều lần. Lần đầu tiên ở Chateau de Canals, không xa thị trấn Xativa bao xa. Khi đi qua vùng Chateau, thánh nhân gặp một phụ nữ tên là Phanxica, vợ của Đa Minh Borgia. Cô có thai trước đó không lâu, nhưng vẫn không hề hay biết. Thánh Vinh Sơn chắc chắn về điều đó và ngài nói thêm:
– Hài nhi con đang cưu mang trong tương lai sẽ trở thành Giáo hoàng.
Một thời gian sau, khoảng năm 1378, các sử gia nói rằng khi băng qua nơi đó để giảng thuyết ở Xativa, thánh Vinh Sơn trông thấy cô Phanxica đang bế một đứa trẻ cô đã hạ sinh trước đó vài ngày. Thánh nhân tiến lại và nói với cô:
– Hãy chăm sóc con trẻ cẩn thận. Em sẽ là Giáo hoàng và sẽ phong thánh cho cha.
Sau đó, vào một ngày nọ khi thánh Vinh Sơn đang đồng hành cùng các môn đệ, trong đó, có một số người là bà con với con trẻ, thì tình cờ cô Phanxica bế hài nhi đến gặp ngài, thánh nhân ôm lấy hài nhi, quay về phía các môn đệ và nói:
– Hãy hôn chân con trẻ, em sẽ trở thành Giáo hoàng và sẽ phong thánh cho cha. Khi hài nhi được 3 tuổi, một người chú của em đến trình bày tình hình của em cho vị tu sĩ thánh thiện này. Thánh nhân đáp lại:
– Hãy dạy dỗ con trẻ thật tốt, hãy cho em đi học vì một ngày nào đó em sẽ trở thành Giáo hoàng và sẽ đem lại vinh quang cho cha.
Trước năm 1400, khi đang rao giảng ở Lerida, thánh Vinh Sơn tiên báo, trong số những thính giả của ngài, có một thanh niên được chúc phúc ngay từ khi còn thơ bé và tương lai của cậu rất ngời sáng. Cậu sinh viên đó quá ấn tượng vị giảng thuyết ấy đến nỗi, sau bài giảng, cậu đến gặp thánh nhân và nói với ngài:
– Cha giảng thật hay, rồi đây cha sẽ là một vị thánh.
Thánh Vinh Sơn đáp lại:
– Chính con sẽ phong thánh cho cha.
Lời tiên tri này thường lặp đi lặp lại và đã xảy ra như vậy. Sau này, Anphong Borgia trở thành một thần học gia lỗi lạc và là một nhà giáo luật nổi tiếng. Ngài là kinh sĩ ở Lerida và Barcelona, và là cha sở Giáo xứ thánh Nicôla, là Giám mục Giáo phận Valencia và sau cùng là Hồng y và cuối cùng là Giáo hoàng với tước hiệu Calixtô III. Ngay sau khi trở thành Giáo hoàng, ngài đoan thệ sẽ đánh đuổi người Thổ Nhĩ Kỳ.
Và sự việc đã xảy ra đúng như lời tiên tri của Thánh Vinh Sơn. Sau khi qua đời, Toà Thánh bắt đầu ngay tiến trình phong thánh cho ngài. Như lời ngài tiên tri, một vị Giáo Hoàng dòng dõi Borgia là Alphonsus Borgia, tức là Đức Giáo Hoàng Calixtus III, vào ngày 29 tháng 6 năm 1455, long trọng tuyên dương hiển thánh cho ngài. Tuy nhiên, tên ngài được chính thức công bố trong công hàm các thánh do đức Giáo Hoàng Pio II vào ngày 1 tháng 10 năm 1458.
Xin được kết thúc bằng câu chuyện cảm động này:
Một hôm sau khi đã hoàn tất bổn phận, giúp cho cả hàng ngàn người thống hối, thánh nhân cầu nguyện. Đang khi cầu nguyện, Chúa hiện ra với ngài. Thánh nhân tạ ơn Chúa. Chúa hỏi:
– Con có biết tại sao nhiều người trở lại vậy không?
– Thưa Chúa! Vì Chúa thương họ
– Đúng. Nhưng con biết động lực nào thúc đẩy họ trở lại không?
– Nhờ ơn Chúa.
– Đúng vậy con ạ. Ơn của Ta đến với họ qua lời cầu nguyện của thầy vẫn cùng đồng hành với con đó. Trong khi con rao giảng, thầy cầu nguyện. Lời cầu nguyện của thầy thúc đẩy họ.
Chúng ta cùng cám ơn Chúa vì Chúa đã cho loài người chúng ta có được một vị thánh được Chúa yêu thương như thế.
——————————————