Trong dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói:
“Ông này thật là vị ngôn sứ.” Kẻ khác rằng: “Ông này là Đấng Ki-tô.” (Ga 1, 40)
Suy Niệm Lời Chúa
Thứ Bảy Tuần 4 Mùa Chay
Ngày 02/04/2022
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gioan: Ga 7, 40-53
Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: “Ông này thật là vị ngôn sứ.” Kẻ khác rằng: “Ông này là Ðấng Kitô.” Nhưng có kẻ lại nói: “Ðấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê sao? Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Ðavít và từ Bêlem, làng của vua Ðavít sao?” Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ. Một số trong bọn họ muốn bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt. Các vệ binh, trở về với các thượng tế và người Pharisêu. Họ liền hỏi chúng: “Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây?” Các vệ binh trả lời: “Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!” Người Pharisêu liền nói với chúng: “Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pharisêu, đã có một ai tin vào tên ấy đâu? Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa!” Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, trước đây đã đến gặp Ðức Giêsu; ông nói với họ: “Lề Luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” Họ đáp: “Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả.” Sau đó, ai nấy trở về nhà mình.
Suy niệm 1: Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Bài Tin Mừng hôm qua cho thấy người Do Thái không tin Đức Giêsu là Kitô
vì đối với họ, Đấng Kitô phải là người mà họ không biết xuất thân từ đâu.
Còn Đức Giêsu thì họ tự hào đã quá biết gốc gác của Ngài (Ga 7, 27).
Bài Tin Mừng hôm nay lại tiếp tục cuộc tranh luận về căn tính của Đức Giêsu.
Đức Giêsu gây ra một sự chia rẽ trong dân chúng
đang nghe Ngài giảng tại Đền thờ Giêrusalem (cc. 40-45).
Có những người tin Ngài là Vị Ngôn sứ được ông Môsê tiên báo (Đnl 18, 15).
Có người lại cho Ngài là Đấng Kitô (c.41).
Có người không đồng ý như thế, vì Đức Giêsu xuất thân từ Galilê,
còn Đấng Kitô thì phải xuất thân từ Bêlem, quê của vua Đavít (c.42).
Thật ra chuyện gốc Đức Giêsu ở đâu, chẳng quan trọng mấy.
Chuyện quan trọng là Đức Giêsu Nazareth ấy xuất thân từ Thiên Chúa.
Đức Giêsu còn gây ra sự chia rẽ trong giới lãnh đạo.
Các thượng tế và người Pharisêu đã sai các vệ binh đi bắt Đức Giêsu (c.32).
Nhưng họ đã không tuân lệnh các nhà lãnh đạo ấy,
chỉ vì họ bị ngây ngất trước lời giảng dạy đầy quyền uy của Đức Giêsu.
“Xưa nay chưa hề có ai nói năng như người ấy” (c. 46).
Nhận xét của họ còn đúng mãi đến tận thế.
Trước chuyện bất phục tùng của các vệ binh, người Pharisêu cảm thấy bực bội.
Họ không thể hiểu được tại sao các vệ binh lại có thể bị lừa dối dễ đến thế.
Vì khinh bỉ những người tin vào Đức Giêsu,
Họ gọi những người này là bọn dân đen, dốt nát không biết Lề Luật.
Ai không biết Lề Luật thì cũng chẳng thể giữ Lề Luật,
nên đây đúng là những người bị Thiên Chúa nguyền rủa (c. 49).
Thật ra không phải là không có thủ lãnh nào trong dân tin vào Đức Giêsu.
Ông Nicôđêmô là một thủ lãnh (Ga 3,1) đã đến gặp Đức Giêsu ban đêm.
Ngay bây giờ ta sẽ thấy ông dám lên tiếng để bênh vực cho Ngài (c. 50).
Ông đòi Đức Giêsu phải có tiếng nói trước khi bị kết tội (x. Đnl 1, 16-17).
Khi kết án Ngài cách vội vã, Thượng Hội Đồng Do Thái đã phạm luật.
Nhưng tiếng nói của ông Nicôđêmô đã không được nghe nghiêm túc.
Bất chấp vai vế của ông, ông cũng bị chế nhạo:
“Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao?” (c.52).
Người Galilê là hạng người bị coi khinh vì ít giữ Luật so với người Giuđê.
Nhưng đừng quên từ Galilê cũng có ngôn sứ Giôna, con ông Amíttai (2V 14, 25).
Thái độ của những thượng tế và người Pharisêu thật đáng ta suy nghĩ.
Họ khép lại trong thành kiến với Đức Giêsu.
Họ vùi dập bất cứ ai có cái nhìn ngược với họ, dù là vệ binh hay Nicôđêmô.
Họ không ngại châm biếm hay khinh miệt những người khác quan điểm.
Xin Chúa cho ta hồn nhiên như các vệ binh,
và can đảm nói sự thật như ông Nicôđêmô.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.
(R. Tagore)
Suy niệm 2: Lm. Giuse Đinh Tất Quý
1. Càng ngày, Chúa Giêsu càng phải đối đầu với những nguy hiểm xem ra càng lúc càng mạnh hơn. Dân chúng trước đây cách chung ủng hộ Ngài nhưng nay thì hoang mang. Các thượng tế và Pharisêu thì nóng lòng muốn giết Chúa. Nicôđêmô lên tiếng bênh vực Ngài thì bị chụp mũ là đồng bọn Galilê với Chúa.
Chúa Giêsu đã trở nên một dấu hỏi lớn. Mỗi người phải tìm một câu trả lời cho câu hỏi “Giêsu là ai ?”.
Có lẽ bằng lời nói, không ai trong chúng ta mà không tuyên xưng và nhận Chúa Giêsu là Chúa của mình, nhưng trong thực tế của cuộc sống thì hình như giữa lời tuyên xưng và cách sống hằng ngày của chúng ta vẫn còn một khoảng cách rất khó lấp đầy.
Blondin là một trong những tên tuổi lừng danh trong ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh là đã có lần anh đi trên một sợi dây cáp bắc qua thác Niagara, là thác dài nhất và sâu nhất thế giới. Một lần nọ, khi vừa bước lên dây cáp để chuẩn bị đi qua bờ bên kia, nhìn xuống anh thấy có một cậu bé đứng gần đang há hốc miệng nhìn lên anh, anh nhìn thẳng vào mắt cậu bé và hỏi:
– Em có tin là chú có thể mang một người trên vai chú và đi qua bên kia không ?
Giữa tiếng thác đổ ầm ầm, câu bé thét lên:
– Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó.
Thế nhưng, khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai thì em đã lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự bảo đảm của người biểu diễn.
Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: “Phần các con, các con bảo Ta là ai ?”. Cũng như Phêrô khi đại diện cho các tông đồ, chúng ta sẽ trả lời: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16,16). Nhưng trong thực tế, thái độ của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa dám tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa”. (Mỗi ngày một tin vui)
2. Nhân chứng
Trong khi nhiều người chống đối Chúa Giêsu, nhiều người khác hoang mang không xác định rõ lập trường, thì Nicôđêmô đã can đảm lên tiếng bênh vực Ngài. Chung quanh chúng ta ngày nay, cũng có nhiều người chống đối hay chưa hiểu Chúa Giêsu. Tôi có can đảm như Nicôđêmô không ? Dám can đảm làm nhân chứng cho Chúa đó là dấu chỉ của một con người có niềm tin và là một người nhận Chúa làm Chúa của cuộc đời mình.
Một hôm, bên Châu Mỹ Latinh, một linh mục cử hành thánh lễ trong vùng “ổ chuột”. Bài giảng hôm ấy được thực hiện dưới dạng đối thoại với anh chị em tín hữu, nhắm tới sự giao hòa. Thế là một cậu bé đã tuyên bố:
– Thưa các nhà thừa sai, chúng con cảm ơn các ngài, vì các ngài đã dạy chúng con yêu thương kẻ thù. Cách đây một tuần, con đã sắm sẵn một con dao để giết một thằng bạn mà con vẫn căm ghét. Nhưng sau khi nghe cha giải thích cho chúng con nghe bài Tin Mừng, con đã đi mua một chiếc bánh kem để tặng cho kẻ thù của con.
Một chủng sinh trẻ người Liban đã bị giết cách đây vài năm, trên con đường đi về nhà để mừng lễ Giáng Sinh. Đó là nạn nhân của cuộc chiến tranh, huynh đệ tương tàn đang xảy ra tại quê hương anh. Người ta đọc được những lời sau đây trong di chúc của anh: “Tôi thấy rồi, mình sẽ bị bắt cóc và sẽ bị giết trên đường để tới làng tôi. Tôi nói với mẹ và các chị em tôi: Xin mẹ và chị em đừng buồn. Chúng ta sẽ gặp lại nhau, chắc chắn mà, trong nơi vĩnh cửu trên trời. Con xin mẹ và các chị em một điều: Xin hãy tha thứ hết lòng cho những kẻ đã giết con. Ước gì máu con được đổ ra để chuộc được tội cho Liban. Ước gì cái chết của con dạy cho con người sống bác ái. Xin hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện và yêu thương các kẻ thù”.
Tại vùng Chouf (một miền thuộc xứ Liban, ở miền Nam Beyrouth), vào lúc cuối năm 1983, em Maria Khoury đã bị một kẻ cuồng tín bắt, hắn chĩa súng vào gáy em:
– Hãy chối Giêsu Kitô đi, rồi mày sẽ được sống.
Em trả lời:
– Tôi sẽ không chối Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Tôi muốn trung thành với các lời hứa khi nhận phép rửa tội. Anh cứ việc bắn, nếu anh muốn.
Hắn đã nổ súng. Nghĩ rằng em đã chết, hắn bỏ em nằm đó trên vũng máu. Được cứu, nhưng bị mù và què quặt, em đã nói:
– Em tha thứ cho người bắn em, như em đã tha thứ cho người giết mẹ em và cho người đã giết cha em.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Amen.
Suy niệm 3: TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Sự xuất hiện của Chúa Giêsu tạo ra một cuộc tranh chấp quyết liệt giữa những người tin và những kẻ chống đối. Hãy theo Chúa với một lập trường dứt khoát vững vàng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cuộc sống luôn là một sự chọn lựa, và đức tin lại càng đòi hỏi phải chọn lựa quyết liệt hơn. Con tin vào Chúa là con tin vào tình yêu vô biên của Chúa, và đồng thời đức tin đòi con phải chấp nhận dấn thân trọn vẹn, chấp nhận một sự đổi đời. Chúa ban đức tin cho con không phải để ru ngủ con trong yêu thương, trái lại con biết Chúa đòi con chọn lựa một cách quyết liệt để đi theo Chúa, để sống cho Chúa và anh em. Chúa đến bằng con đường thập tự, và đòi buộc con cũng phải dứt khoát theo Chúa.
Lạy Chúa, theo Chúa như vậy thực sự là khó. Cuộc sống ở đời có bao nhiêu cám dỗ ngọt ngào, bao nhiêu thử thách cam go. Và vì thế con thường theo Chúa nửa vời lấp lửng, con muốn vừa được Chúa vừa được thế gian, vừa theo Chúa vừa sợ hy sinh gian khổ. Rốt cuộc con chỉ chuốc lấy đau khổ vào thân. Cũng chính vì con không dứt khoát chọn đứng về phía Chúa mà sau bao nhiêu năm theo Chúa, con vẫn ì ạch ở nửa đường. Xin Chúa thương tha thứ và nâng đỡ con.
Lạy Chúa, trong đời sống có những lúc con sẽ phải công khai đứng về phía Chúa và tuyên xưng lòng tin một cách chân thành như các vệ binh hay ít nữa là bênh vực Chúa như ông Nicôđêmô. Con sợ không làm đuợc vì con thường sợ bị liên lụy thiệt thòi. Xin Chúa giúp con can đam giữ vững lập trường đã chọn. Chỉ có Chúa là Chúa, là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của con. Xin giữ gìn con trọn đời trung thành với Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao ?”
Suy niệm 4: Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Hạt giống…
1. Bài đọc 1: Hôm qua chúng ta đã nghe một đoạn sách không ngoan nói về việc người công chính bị kẻ gian ác bách hại. Hôm nay, ngôn sứ Giêrêmia cũng lập lại ý tưởng đó. Người công chính thường bị bách hại, đó là một chủ đề lớn của Cựu ước. Chúa Giêsu cũng không được miễn khỏi định luật khắc khe đó.
2. Bài Tin Mừng: Càng ngày, Chúa Giêsu càng tiến đến gần lúc nguy hiểm. Dân chúng trước đây cách chung ủng hộ Ngài nay hoang mang, kẻ thì nói Ngài là Đức Kitô, kẻ khác không còn tin nữa, vì theo những kẻ này Đức Kitô không xuất thân từ Galilê mà phải xuất thân từ Bêlem thành của vua Đavít. Các thượng tế và biệt phái thì nóng lòng muốn bắt Ngài. Gamaliên lên tiếng bênh vực Ngài thì bị chụp mũ là đồng bọn Galilê với Ngài.
B. Nẩy mầm…
1. Chúa Giêsu đã trở nên một dấu hỏi lớn. Mỗi người phải tìm một câu trả lời cho câu hỏi “Giêsu là ai ?”. Câu trả lời của tôi thế nào: đối với tôi, Giêsu là Đấng để tôi chạy tới xin ơn ? Là Đấng nhân từ luôn thông cảm tha thứ ? Là người rắc rối hay đặt vấn đề cho lương tâm tôi ? Là đấng mà tôi phải trung thành đi theo, cho dù phải theo trên con đường Thập giá ?
2. Trong khi nhiều người chống đối Chúa Giêsu, nhiều người khác hoang mang không xác định rõ lập trường, thì Gamaliên đã can đảm lên tiếng bênh vực Ngài. Chung quanh chúng ta ngày nay cũng có nhiều người chống đối hay chưa hiểu Chúa Giêsu. Tôi có can đảm như Gamaliên không ?
3. “Blondin là một trong những tên tuổi của ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh là đã có thể đi trên một sợi dây qua thác Niagara là thác dài nhất và cao nhất thế giới. Trong một dịp biểu diễn, anh quay sang hỏi một cậu bé đứng gần đó: “Em có tin là tôi có thể mang một người trên vai và đi xuyên qua dòng thác không ?”. Giữa tiếng thác đổ ầm ầm, câu bé thét lên “Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó”. Thế nhưng khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai thì em đã lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự bảo đảm của người biểu diễn.
Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu “Phần các con, các con bảo Ta là ai ?”. Cũng như Phêrô khi đại diện cho các tông đồ, chúng ta sẽ trả lời “Thầy là con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng trong thực tế, thái độ của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa.” (“Mỗi ngày một tin vui”).
Suy niệm 5: Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Dư luận chia rẽ về Đức Giêsu (Ga 7,40-53)
- Khi nghe Đức Giêsu giảng trong Đền thờ, dân chúng đã dị nghị về Ngài. Và khi nghe bài giảng xong, dư luận càng chia rẽ về nguồn gốc của Ngài. Bài Tin mừng cho biết dân chúng trước đây cách chung ủng hộ Ngài nay hoang mang, kẻ thì nói Ngài là Đấng Kitô, kẻ khác không còn tin nữa, vì theo những kẻ này Đức Kitô không xuất thân từ Galilê, mà phải xuất thân từ Belem thành của Đavít. Các thượng tế và biệt phái thì nóng lòng muốn bắt Ngài. Nicôđêmô lên tiếng bênh vực Ngài thì bị chụp mũ là đồng bọn Galilê với Ngài.
- Đức Giêsu là ai ? Đứng trước Đức Giêsu, kẻ thì nhìn nhận Ngài là Con Thiên Chúa làm người, kẻ thì nghĩ Ngài là một vĩ nhân, một tiên tri có sứ mệnh đặc biệt nào đó, kẻ khác nữa thì cho là một người phàm như mọi người. Thế là người ta hoang mang chia rẽ nhau. Đó cũng là thái độ của người Do thái thời Đức Giêsu như được thuật lại trong bài Tin mừng hôm nay.
Chúng sẽ lần lượt nói đến những hạng người đó.
- Thứ nhất: đây là những con người bình thường ngay lành có lương tâm trong sáng, không bị dư luận xấu chi phối. Họ thuộc giới bình dân. Họ đã nghe lời Chúa giảng, hoặc đã được hưởng việc lạ Chúa làm, và tuyên xưng Chúa là Đấng đến giải phóng cho muôn người, như tiên tri Isaia đã báo trước: “Ngài làm cho người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ què đi được, kẻ chết sống lại và tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. Như vậy, những người này đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Đấng Kitô.
- Thứ hai: những nhà lãnh đạo tôn giáo như thượng tế, biệt phái và luật sĩ chối bỏ tất cả, họ không công nhận Ngài là một tiên tri, cũng không phải là Đấng Thiên Sai hay Đấng Kitô, vì không hội đủ những điều kiện về địa dư và dòng tộc, họ coi Ngài chỉ là người tầm thường như mọi người, một người như thế không thể là Đấng Kitô được, thế mà tự nhận cho mình địa vị và vai trò đó. Cho nên họ tức giận và ra lệnh cho binh lính tìm bắt Ngài.
- Thứ ba: những người lính được các thượng tế sai đi bắt Chúa giải về cho họ xử. Những người này không dám bắt Ngài vì một phần còn sợ dân, nhất là khi nghe Ngài giảng như Đấng có uy quyền. Họ trở về trình diện các thượng tế với dáng vẻ sợ sệt, mà trình bầy với họ bằng những lời: “Chúng tôi chưa từng gặp một người nào nói năng như ông ấy”. Như vậy, mặc nhiên họ đã cống nhận Chúa là một người khác biệt, một siêu nhân.
- Thứ tư: ông Nicôđêmô, là một người trong nhóm biệt phái, một người có thế giá, một thành viên hội đồng lập pháp, đã bênh vực Đức Giêsu khi ông nói: “Luật pháp của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không ?” Như vậy ông đề nghị trước khi kết án Đức Giêsu thì phải điều tra cho cẩn thận; nhưng đề nghị của ông không được họ chấp nhận, đúng là họ theo luật rừng.
- Đức Giêsu đã trở nên một dấu hỏi lớn. Mỗi người phải tìm một câu trả lời cho câu hỏi: “Đức Giêsu là ai ? Thật ra điều kiện chính yếu để có thể nhận biết Thiên Chúa, đó là thái độ khiêm tốn, vô tư, trung thực, gạt bỏ tự cao tự đại, thay đổi quan điểm, thành kiến, hy sinh quyền lợi riêng tư, để theo sự chỉ dẫn của Thiên Chúa. Người Do thái xưa đã không tin nhận Đức Giêsu là vì họ thiếu những điều kiện kể trên.
Đối với chúng ta ngày nay, chúng ta đã tin nhận Đức Giêsu, nhưng chúng ta có thực hiện Lời Chúa dạy bảo không ? Đức tin không việc làm là đức tin chết. Mùa Chay là ăn năn sám hối và sửa đổi đời sống, chúng ta hãy nghe Lời Chúa kêu gọi: “Hôm nay nếu anh em nghe Lời Chúa, thì đừng cứng lòng nữa”.
- Truyện: Đức tin phải có việc làm
Blodin là một trong những tên tuổi của ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh là đã có thể đi trên một sợi dây qua thác Niagara là thác dài nhất và cao nhất thế giới. Trong một dịp biểu diễn, anh quay sang hỏi một cậu bé đứng gần đó: “Em có tin là tôi có thể mang một người trên vai và đi xuyên qua dòng thác không ?” Giữa tiếng thác đổ ầm ầm, cậu bé thét lên: “Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó”. Thế nhưng khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai thì em lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự đảm bảo của người biểu diễn.
Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời cho câu hỏi của Đức Giêsu: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?” Cũng như Phêrô khi đại diện cho các Tông đồ, chúng ta sẽ trả lời: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng trong thực tế, thái độ sống của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa” (Mỗi ngày một tin vui).
Ngày 2 tháng 4
THÁNH PHANXICÔ THÀNH PAOLA
I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ
Thánh Phanxicô thành Paola (tiếng Ý: Francesco di Paola, 27 tháng 3, 1416 – 2 tháng 4, 1507) là một tu sĩ ẩn tu thuộc Giáo hội Công giáo Rôma, người sáng lập Dòng Anh Em Rất Hèn Mọn (Minimes).
Phanxicô sinh tại Paola, một ngôi làng nhỏ thuộc Calabria nước Ý vào năm 1416. Cha mẹ của Phanxicô là những người rất nghèo nhưng đạo đức và khiêm tốn. Tuy kết hôn đã lâu mà chưa có con, ông bà đã nguyện xin thánh Phanxicô thành Assisi cầu bầu cùng Thiên Chúa để được ban ơn cứu giúp. Thiên Chúa đã nhậm lời nên sau khi sinh hạ một đứa con trai, họ tin là nhờ lời bầu cử của thánh Phanxicô thành Assisi nên đã đặt tên cho con trai mình là Phanxicô.
Từ thuở nhỏ, Phanxicô đã đi học ở trường của các cha Dòng Phanxicô và tiếp xúc với cuộc sống tu trì của nhà dòng này. Tuy chưa thực hiện lời khấn dòng nhưng Phanxicô đã thể hiện đời sống mẫu mực của mình khiến cho các tu sĩ trong dòng rất cảm kích và muốn giữ cậu bé này ở trong dòng. Vào năm 15 tuổi, Phanxicô cùng cha mẹ đi hành hương đến Roma. Cuộc hành hương này tạo nên một bước ngoặt lớn cho cuộc đời Phanxicô, khiến cho Phanxicô chuyển đến sống riêng trong một cái hang với mong muốn làm một ẩn sĩ và dâng hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa.
Năm 20 tuổi, lý tưởng của Phanxicô đã lay động được nhiều bạn trẻ, và họ tìm đến với anh để xin gia nhập. Nhóm của Phanxicô làm 3 phòng và một nhà nguyện gần hang Phanxicô trú ẩn để cầu nguyện mỗi ngày. Về sau, người dân thành Paola đã xây cất cho Phanxicô và các môn đệ của ngài một ngôi thánh đường và một tu viện để trở thành Dòng Anh Em Rất Hèn Mọn. Phanxicô dạy các môn đệ của mình sống khiêm tốn, quảng đại và thực hành nhiều việc đền tội. Chính bản thân Phanxicô là mẫu gương cho các nhân đức mà mình đã giảng dạy.
Lúc về già khi cảm thấy sắp phải lìa trần, thánh nhân như được tiếp nhận một tin vui. Ngày thứ năm tuần thánh, Ngài tập họp các tu sĩ lại, khuyên họ giữ chay trường và luật dòng. Rồi Ngài cầm lấy một cục than nóng trong tay và nói:
– Cha đoan quyết với anh em rằng: đối với người yêu mến Chúa, việc hoàn thành điều mình đã hứa với Chúa không khó hơn việc Cha cầm lửa trong tay này đâu.
Sau đó dựa vào một tu sĩ, Ngài dự lễ và rước mình thánh Chúa. Vì được ơn nói tiên tri và làm phép lạ, được mọi người từ vua quan tới dân chúng kính trọng, Ngài cột dây vào cổ và muốn được chết như một tội nhân. Ngày thứ sáu tuần thánh sau khi chỉ định người kế vị, chúc lành cho con cái, Ngài hôn thánh giá và tắt thở. Hôm ấy là ngày 02 tháng 04 năm 1507.
II. BÀI HỌC.
Nhìn lại cuộc đời của thánh Phanxicô Paola chúng ta thấy có một số điểm nổ bật này:
1. Ngài là một người chiêm niệm nhưng lại được kêu gọi để hoạt động xã hội. Một con người phải sống giữa hai chiều kích như thế chắc rằng ngài phải cảm thấy sự căng thẳng giữa đời sống cầu nguyện và việc phục vụ xã hội.
Ngày xưa Chúa cũng đã phải trải qua cuộc sống căng thẳng như thế. Chúa Giêsu đã giải quyết bằng cách nào? Thưa là Ngài luôn sống kết hợp với Thiên Chúa là Cha . Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII cũng cho chúng ta một chỉ dẫn tuy rất đơn sơ nhưng cũng rất cụ thể và ai cũng có thể làm được “Tôi cảm thấy quen sống kết hợp với Chúa qua “tư tưởng, lời nói, việc làm”. Tôi hằng nhớ hai lời nguyện “nước Cha trị đến, vâng ý Cha” và mọi sự việc đều hướng về đó.”(Nhật ký một tâm hồn.)
2. Điểm thứ hai: Ngoài ba lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời như các dòng khác, Phanxicô còn thêm vào lời khấn thứ tư là thường xuyên ăn chay kiêng thịt.
Việc ăn chay kiêng thịt này vừa có mục đích rèn luyện việc làm chủ cuộc sống của mình vừa có mục đích dành những của cải Chúa ban để giúp đỡ người nghèo khó cần đến sự giúp của mình. Đây chính là việc ăn chay được Chúa ưa thích.
“Cách ăn chay mà Ta ưa thích là thế này : mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm, chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân.(Is 58,6)
Chúng ta đang sống trong Mùa chay thánh. Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết thực hành việc chay tịnh để Chúa ban cho chúng nhiều ơn nâng đỡ của Người.
Hippocrate, thủy tổ của các thầy thuốc, sống tại Hy Lạp vào thế kỷ thứ 5 trước Chúa Giêsu và chết khi quá trăm tuổi. Một hôm, người ta hỏi ông vì sao ông sống thọ như thế, ông trả lời:
– Tôi bao giờ cũng rời bàn ăn khi còn đói. Đó là bí quyết của tuổi thọ của tôi.
Tiết độ lúc còn trẻ
Sức khỏe khi về già
Thánh Anphong, giám mục địa phận Ste Agathe gần Naples, Đấng sáng lập dòng Chúa Cứu thế, và là tác giả rất nhiều tác phẩm thần học và đạo đức, đã có thói quen ăn chay mọi ngày thứ bảy để tôn kính Đức Mẹ. Tuy nhiên, Ngài cũng sống đến 90 tuổi
Louis Cornaro, xuất thân từ một gia đình quí phái ở Venice, khi lên 30 tuổi, bị một cơn yếu liệt đến nỗi người ta tưởng anh sắp chết. Không một thức ăn, một thứ thuốc nào có thể cải thiện tình trạng thảm hại của anh. Người trai trẻ đó mới có một ý nghĩ:
_ Vì mình phải chết và những thức ăn ngon nhất cũng không giúp ích gì được cho mình, mình sẽ ăn chay, điều đó có thể làm cho mình bớt đau, biết đâu. Từ ngày đó anh chỉ ăn 400 gram thức ăn mỗi ngày, và vài tháng sau anh khá hơn đến nỗi các bác sĩ khuyên anh nên tiếp tục kiêng ăn như thế, anh đã làm hư thế trong 50 năm mà không hề bị ngã bệnh lần nào. Vào lúc 30 tuổi, do bạn bè xúi giục, ông ăn thêm một ít thức ăn, nhưng thấy bất ổn, ông lại kiêng ăn và sống đến 104 tuổi. Khi đã lớn tuổi, ông viết một cuốn sách đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng, cho rằng việc ăn chay là một nhân đức giúp ta vui sống và nâng đỡ sức lực tinh thần. Ong nói:
– Tôi đã 95 tuổi và tôi rất khoẻ mạnh, tôi sống rất vui sướng và hạnh phúc giống như cách đây 25 năm. Cháu nội của ông nói rằng:
– Cho đến khi ông 100 tuổi, ông không có một tật bệnh nào; ông nghe và thấy rất rõ, ông viết lách từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày mà không dùng kính, ông thích gặp gỡ bạn bè, thích hát và âm nhạc và có một giọng hát như thanh niên 20 tuổi.
Điều đó chứng tỏ rằng ăn chay bồi bổ sức khỏe và kéo dài tuổi thọ của con người; hình như những kẻ ăn uống quá độ thường không sống lâu được. Đức Lêô XIII đã nói:
– Có người hình như chỉ ăn để mà chết sớm.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
———————————