“Đang lúc Đức Giê-su cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác” (Lc 9, 29)
Suy Niệm Lời Chúa
Chúa Nhật Tuần 2 Mùa Chay
13/03/2022
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Luca: Lc 9, 28b-36
Hôm ấy, Ðức Giêsu lên núi cầu nguyện, đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê. Ðang khi Người cầu nguyện, thì khuôn mặt Người biến đổi, y phục Người nên trắng ngời như chớp sáng. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Ðức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Người. Ðang lúc hai vị này rời xa Ðức Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Môsê, và một cái cho ông Êlia.” Ông không biết mình đang nói gì. Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Ðây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Ðức Giêsu. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
Suy niệm 1: Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Tâm sự của Thầy Giêsu
Tôi thích núi, thích lên núi, nơi thanh tịnh.
Núi là nơi tôi hay chọn để cầu nguyện, có khi một mình.
Nhưng hôm nay tôi dẫn theo ba môn đệ thân tín.
Tôi mong họ cùng cầu nguyện với tôi
khi tôi biết mình sắp bắt đầu một cuộc hành trình mới,
cuộc hành trình lên Giêrusalem lần cuối của đời tôi.
Tôi đã báo cho các môn đệ biết về con đường tôi sắp đi,
con đường của khổ đau, nhục nhã và cái chết (Lc 9,22).
Nhưng đó không phải là con đường cụt,
vì tôi tin Cha sẽ không bỏ rơi tôi, nhưng sẽ nâng tôi lên.
Con đường ấy sớm muộn cũng là con đường họ phải đi.
Tiếc là các môn đệ không hiểu điều tôi nói (Lc 9,45).
Khi cầu nguyện với Cha, tôi rất hạnh phúc,
vì được gần Cha, Abba của tôi, Đấng sai tôi đến thế gian.
Chỉ mình Cha biết tôi, hiểu tôi, và không để tôi một mình.
Khi gặp gỡ Cha, tôi được đưa vào thế giới thần linh.
Hôm nay, đang khi cầu nguyện,
tôi bỗng thấy mình được biến đổi lạ lùng.
Vinh quang của Cha như chiếm trọn con người tôi.
Cả khuôn mặt và y phục của tôi bừng sáng.
Tôi như trở thành một con người khác.
Đây là một kinh nghiệm phi thường mà tôi trải qua.
Hơn nữa, Cha còn đến với tôi trong đám mây.
Mây vừa che khuất, vừa bày tỏ sự hiện diện của Cha.
Cha nói với các môn đệ, cũng là nói với tôi (Lc 9,35).
Cha khẳng định tôi là Con của Cha, được Cha ưu tuyển.
Tôi thích nghe Cha gọi tôi là Con,
và tôi cũng thích gọi Ngài là Cha, Abba.
Tình Cha-Con giữa chúng tôi thân mật và ấm áp.
Dù đời tôi sắp đi vào ngõ hẹp, vào bóng tối mịt mù,
nhưng tôi chỉ muốn mình đi đúng đường Cha muốn.
Môsê và Êlia hiện ra nói với tôi về cuộc xuất hành.
Tôi biết cuộc xuất hành ấy sẽ kết thúc ở Giêrusalem.
Và tôi tin đây sẽ là một kết thúc có hậu.
Tâm sự của ba môn đệ
Chúng tôi vui vì được Thầy dẫn lên núi để cầu nguyện.
Chìm đắm trong cầu nguyện như Thầy là điều khó.
Chính vì thế chẳng mấy chốc chúng tôi đã ngủ mê mệt.
Thầy cứ cầu nguyện, còn trò thì cứ ngủ!
Khi bừng tỉnh, chúng tôi thấy một cảnh tượng lạ lùng.
Thầy chúng tôi rực rỡ vinh quang đứng với Môsê và Êlia.
Chúng tôi ngây ngất, như không tin vào mắt mình.
Khi hai ông Môsê và Êlia sắp từ biệt Thầy,
anh Phêrô muốn kéo dài giây phút kỳ diệu này
nên xin Thầy cho phép dựng ba lều trên núi cho ba vị.
Sau này chúng tôi mới hiểu đây không phải là chỗ dựng lều,
vì Thầy trò chúng tôi còn phải xuống núi,
phải leo những ngọn núi khác, như núi Cây Dầu, núi Sọ,
và phải trải trải qua những kinh nghiệm đau thương ở đó.
Chúng tôi không được dừng lại lâu ở ngọn núi này,
dù hạnh phúc và an ủi ở đây là điều rất cần và quý.
Khi một đám mây bất ngờ kéo đến và bao phủ chúng tôi,
chúng tôi cảm nhận ngay sự hiện diện của Thiên Chúa.
Điều đó khiến chúng tôi khiếp sợ (Lc 9,34).
Mà đúng là Thiên Chúa muốn ngỏ lời với chúng tôi.
Ngài như Người Cha giới thiệu Thầy Giêsu là Con,
Người Con cao trọng, vượt cả Môsê và Êlia.
“Các anh hãy lắng nghe Người” (Lc 9,35).
Chúng tôi và các tín hữu vẫn cố gắng sống lời nhắn nhủ ấy.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con.
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo, với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
Suy Niệm 2: Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó, những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Chúa Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Chúa Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Chúa Giêsu.
SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY
NGÀY 06/3/2022
Chiêm Ngưỡng Nhan Chúa
Muốn theo sau Chúa thì cũng phải đi cùng một con đường, không có “xa lộ” song song, không có “cầu vượt” dành cho các môn đệ. Biết là các môn đệ không dễ gì chấp nhận nổi “thập giá” nên Chúa muốn cho ba người đại diện thoáng thấy vinh quang phục sinh của Chúa. Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó, những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Chúa Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Chúa Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Chúa Giêsu.
Đưa các môn đệ lên đỉnh núi Tabor, Chúa Giêsu cho họ chiêm ngắm vẻ đẹp của thế giới thần linh, sau đó Người đưa các môn đệ xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Sọ.
1. Núi Tabor
Sách Thủ lãnh kể chuyện: Theo lệnh của Đêbôra, một nữ ngôn sứ, làm thủ lãnh xứ Israel, “ Ông Barắc từ núi Tabor đi xuống với 10.000 quân theo sau ” (Tl 4,14) để đánh bại Giavin, vua Canaan, trị vì tại Khaxo. Đó là một trong những trận đánh do người Israel phát động nhằm chinh phục đất Canaan. Quân Israel chiếm đóng vị trí chiến lược này và tướng Xixôri dù có 900 chiến xa, không dám leo lên núi để tấn công quân Israel được. Barắc đánh bại quân thù, còn các chiến xa bị sa lầy (x.Tl 4,12-24).
Flavius Joseph, viên chỉ huy lực lượng Do thái ở Galilê, ngay từ đầu cuộc nổi loạn chống lại đế quốc Rôma vào năm 66 đã mô tả thành luỹ của núi Tabor.Nhiều pháo đài bao quanh ngọn núi, những vết tích còn thấy được, không hữu dụng bao nhiêu, vì thiếu nước nên dân chúng phải đầu hàng quân Rôma.
Những nhà thờ xuất hiện trên núi Tabor vào đầu thế kỷ thứ V. Tu viện được các tu sĩ Biển Đức xây dựng vào thời Trung Cổ nhằm chống lại các cuộc tấn công của Saladin. Tuy nhiên, các tu sĩ bị bắt buộc phải bỏ đi sau khi Hattin đại bại vào năm 1187. Tất cả cửa nhà đều bị vua Beybara san thành bình địa. Mãi đến thế kỷ thứ XVII, các tu sĩ Phanxicô mới thu hồi và khôi phục lại.
Được xây dựng vào năm 1991, nhà thờ Chính Thống giáo Hy lạp Thánh Êlia mọc lên trên những vết tích thời Trung Cổ. Vương Cung Thánh đường Hiển Dung được thánh hiến vào năm 1924, là tác phẩm của kiến trúc sư Antôniô Barluzzi. Vương Cung Thánh Đường này nổi tiếng nhờ mặt tiền có hai tháp to lớn nối với nhau bằng một vòng cung theo kiểu Byzantin. Các cây cột chia bên trong thành 3 gian, gian giữa có một bức tranh khảm đá kể lại ước muốn của Thánh Phêrô xây dựng ba cái lều: một cho Chúa Giêsu, một cho ông Môsê, một cho ông Êlia. Các cha dòng Phanxicô cũng xây một tu viện hoành tráng và một cơ sở xã hội kế bên Vương Cung Thánh Đường.
Tôi có dịp hành hương lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth, xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.
Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.
Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.
2. Biến hình
Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “ Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ ” (Mc 9,6); “ Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ ” (Lc 9,34); “ Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ ngã sấp mặt xuống đất ” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “ Chỗi dậy đi, đừng sợ” .
Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).
Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.
Chúa hiển dung trên núi Tabor là một sự kiện đặc biệt. Ông Môsê tiêu biểu cho Lề Luật, ông Êlia tiêu biểu cho các Ngôn Sứ, cả hai đến chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa đang tỏ hiện nơi Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa, cả hai cùng đàm đạo với Chúa Giêsu, Đấng mà “Lề Luật và các Ngôn Sứ” đã loan báo. Sự kiện này trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Kỷ niệm ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.
Câu chuyện Chúa Biến Hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “ Tông Huấn Vita Consecrata ” (đời sống thánh hiến). Thánh Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.
3. Nghe Lời Người
Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “ vâng nghe lời Người ”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.
Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta: “ Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ” (Mc 9,6); “ Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người ” (Lc 9,35).
“ Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“ Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.
Muốn vâng nghe lời ai đó, trước hết phải tin vào người đó. Tin một ai thì phải hiểu biết về người ấy, phải có mối liên hệ thân thiết với người ấy. Muốn tin Chúa, chúng ta phải hiểu biết và sống tương quan mật thiết với Ngài. Nhờ Lời Chúa, chúng ta được hiểu biết về Ngài và được lớn lên trong niềm tin. Nhờ cầu nguyện, chúng ta gặp gỡ, hiểu biết và kết hiệp với Chúa ngày càng thân mật hơn, đức tin sẽ vững vàng hơn. Có tin mới yêu và nghe lời người mình yêu. Chúa Cha muốn chúng ta phải vâng nghe Lời Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn của Ngài. Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “ tin Đức Chúa ” (St 15, 6), Abraham được “ Đức Chúa lập giao ước ” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “ Đức Chúa kể ông là người công chính ” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.
“ Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ”. Không chỉ nghe bằng tai, bằng mắt mà còn nghe bằng lòng trí và bằng cả cuộc sống luôn quy chiếu suy nghĩ hành động theo Chúa Giêsu. Để có thể vâng nghe lời Chúa Giêsu, chúng ta phải gặp Ngài khi dự thánh lễ, khi đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày.Nhờ đó cuộc đời chúng ta sẽ biến đổi, dung mạo sẽ đổi khác. Vâng nghe Lời Chúa, dung mạo chúng ta sẽ ngày càng thân thiện hơn, bình an vui tươi hạnh phúc hơn.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay) .
Lm.Giuse Nguyễn Hữu An
Suy niệm 3: Lm GB Phạm Hồng Thái
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY C
Chúa nhật II Mùa Chay dù là năm A, năm B hay năm C, chúng ta đều được nghe bài Tin Mừng về Chúa Giêsu biến hình mà Phụng vụ mới dùng từ Chúa Hiển Dung.
Xin ghi nhận một vài nét đặc biệt về Chúa biến hình như sau:
– Trước hết là có sự hiện diện của cả Ba ngôi Thiên Chúa giống như cuộc thần hiện khi Chúa Giêsu chịu phép Rửa: Chúa Cha qua tiếng phán từ trong đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”, theo thánh Tôma Aquinô Chúa Thánh Thần hiện diện qua hình đám mây sáng chói, còn trong phép Rửa thì Chúa Thánh Thần dưới hình Chim Bồ Câu, Chúa Ngôi Hai qua Con Người Chúa Giêsu nhập thể.
– Điều đặc biệt nữa là có ông Mosê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu. Ông Mosê là đại diện cho Lề luật, còn ông Elia là đại diện cho truyền thống các tiên tri. Ông Mosê trước khi qua đời đã cho dân Do thái biết sau này Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị tiên tri lớn và ông dạy dân hãy nghe lời vị tiên tri đó, nay ông xuất hiện bên Chúa Giêsu để chứng thực rằng Chúa Giêsu chính là vị tiên tri ông loan báo xưa, nay đã đến. Còn ông Elia dân Do thái tin tưởng sẽ xuất hiện trước khi Đấng Cứu thế đến. Giờ ông có mặt để làm chứng rằng Chúa Giêsu chính là Đấng Messia mọi người mong đợi đã đến!
Núi Tabor là nơi Chúa Biến hình. Ngọn núi này cao khoảng 600m. Nay khách hành hương có thể lên tham quan núi này bằng xe đặc dụng nơi có Nhà thờ Chúa biến hình do các cha dòng Fanxicô xây cất ở đây từ năm 1925. Cuộc đời Chúa Giêsu được ghi dấu ấn bởi 2 ngọn núi: Núi Tabor và núi Canvê. Nếu tại núi Tabor, khuôn mặt Chúa sáng láng tốt đẹp thì nơi núi Canvê mặt Chúa đầy vẻ ảm đạm: đầu đội mũ gai, máu chảy đầm đìa. Nhưng hình ảnh hai ngọn núi bổ sung cho nhau: Chúa chịu tử nạn đau thương và Chúa phục sinh quang vinh vì thế Chúa Giêsu biến hình nói lên việc Chúa sẽ đạt tới vinh quang nhưng phải qua khổ nạn trước. Nên hai ông Mosê và Elia hiện ra đàm đạo với Chúa về cuộc xuất hành Chúa sắp trải qua tức là về biến cố Tử nạn và Phục sinh.
– Thứ hai là lời Chúa Cha tuyên phán về Chúa Giêsu từ trong đám mây:”Đây là Con Ta yêu dấu. Các ngươi hãy nghe Lời Người”. Qua lời này, trước hết Chúa Cha giới thiệu cho chúng ta: Chúa Giêsu là Con chí ái của Chúa Cha, luôn làm đẹp lòng Chúa Cha vì Chúa Giêsu luôn thi hành theo ý Chúa Cha. Rồi tiếp đến là lời Chúa Cha nhắn gởi cho con người qua mọi thế hệ: “Các ngươi hãy nghe Lời Người”. Vậy chúng ta đón nhận lời dạy của Chúa Cha là lắng nghe Lời Chúa Giêsu và đem ra thực hành vì lời Chúa là thần trí và là sự sống. Lời của Chúa Giêsu cũng chính là lời Chúa Cha. Chúa Giêsu đã quả quyết như vậy: “Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy (Ga 14,24)”. Trong Tiệc cưới Cana, Đức Mẹ cũng khuyên những người giúp việc bằng lời nói tương tự: “Hễ Người bảo gì thì các anh hãy làm theo (Ga 2, 5)”. Nay trong gẫm năm sự sáng, chúng ta đọc: “Thứ tư: Chúa Giêsu biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được lắng nghe và thực hành lời Chúa”.
Vậy Chúa Giêsu biến hình có liên hệ gì với chúng ta ngày nay? Chúa biến hình báo trước mầu nhiệm Phục sinh. Thánh Phaolô nói: “Người sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng nên giống như thân xác vinh hiển của Người (Pl 3, 21)”. Ngày sau hết thân xác ta cũng được Chúa cho sống lại và được kết hợp với linh hồn để được hưởng sự sống đời đời vì thế mà nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy đi qua con đường thập giá để tiến đến vinh quang. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy thực hiện việc hoán cải được ví như sự biến hình để từ con người tội lỗi, chúng ta trở thành con người thánh thiện giống hình ảnh Thiên Chúa và cũng xứng đáng được Chúa Cha gọi là Con yêu dấu trong Chúa Giêsu.
Câu chuyện: Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ ở Cáp bên Haiti, muốn thuê nhà điêu khắc Pêrikhêt làm một cây Thánh Giá lớn để đặt trong nhà thờ mới. Nhưng lúc đó, ông Pêrikhêt đã bị ung thư nặng. Bác sĩ trực nói với chị nữ tu tới gặp:
“Lẽ ra chị phải đến đây sớm hơn. Rất tiếc là bây giờ căn bệnh ung thư của ông Pêrikhêt đã quá nặng rồi.”
Vài ngày sau, một nữ tu lại đến gặp ông và năn nỉ. Bác sĩ nói với nhà điêu khắc:
“Ông Pêrikhêt à, các nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp mong muốn ông làm cho các chị ấy một cây thánh giá thật đẹp, dài 2m”.
Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi ông bình thản nói với chị nữ tu:
” Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng, tôi sẽ làm cây thánh giá nầy để chuẩn bị chết, và xin Chúa thương xót tôi”.
Thế là nhà điêu khắc bắt tay vào công việc với tất cả tâm hồn của một người mong gặp được Chúa Giêsu. Đây thật là một công việc nặng nhọc vì bệnh tình của ông. Nhưng ông cảm thấy một điều thật lạ lùng là mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông mệt mỏi, thì ông lại cảm thấy như được tăng sinh lực. Ông tiếp tục làm việc ngày qua ngày, và khi ông hoàn thành thì đó là cây thánh giá rất đẹp và ông cảm thấy như khoẻ hẳn. Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác.
Ngày nay, cây Thánh Giá này vẫn còn được treo ở nhà thờ thành phố Cáp Haiti và thu hút nhiều tín hữu tới kính viếng.
Chúng ta xác tín rằng một khi ta biết thông phần vào sự Thương khó của Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ được thông phần vào vinh quang Phục sinh của Chúa. Amen
Suy niệm 4: Lm Ga Phan Tiến Dũng
Trong bài đọc một (St 15, 5-12. 17-18) chúng ta đang được mời gọi để làm theo như Apraham năm xưa. Chúng ta không cần phải đi đâu để tìm Chúa cả, cứ ngước mắt lên để xem trời đất muôn vật cùng các tinh tú, trăng, sao và chiêm ngưỡng mọi tạo vật xung quanh chúng ta…Sau đó, chúng ta được mời gọi để tin có Thiên Chúa là Đấng yêu thương đã tạo thành và an bài mọi sự. Apraham đã tin vào Chúa, Đấng đã dẫn ông ra khỏi thành Ur, quê hương xứ sở của mình, nhờ vào lòng tin mà ông được nên công chính và cũng nhờ đó mà Chúa đã lập giao ước với ông. Mỗi người chúng ta, qua bí tích thánh tẩy, nhờ vào niềm tin của Hội Thánh và của những người thân yêu, Thiên Chúa cũng đã thiết lập với chúng ta một giao ước, Ngài đã ký kết với chúng ta để cho chúng ta được trở nên người con yêu dấu của Thiên Chúa. Thế nhưng, đáng buồn thay, trong cuộc sống đầy thăng trầm này, rất nhiều người đã quên mất, hay đánh mất đi tước vị là người con yêu quý đích thực của Chúa. Tại sao lại như vậy? Thưa vì, chúng ta luôn chiều theo và làm theo ý riêng ích kỷ hẹp hòi và tội lỗi của mình, chứ không tuân theo và thực thi thánh ý của Chúa. Vậy thì, thánh ý của Chúa cho chúng ta là gì?
Trong bài đọc hai (Pl 3, 17 – 4, 1) Thánh Phaolô cho chúng ta biết: Thánh ý của Chúa không phải là chuyện mình muốn làm điều gì tốt hay có lợi cho mình, nói khác hơn, không phải là chuyện chỉ “lo cho cái bụng của mình”. Khi chúng ta ích kỷ để lo cho lợi ích của bản thân, thì chúng ta đã đi ngược lại với thánh ý của Chúa. Hơn bất cứ ai, vì với kinh nghiệm của bản thân, Thánh Phaolo đã chia sẻ cho chúng ta biết: Thánh ý Chúa không gì khác hơn đó chính là “Thập Giá của Đức Giêsu Kitô”. Mặc dầu là Con Thiên Chúa nhưng Ngài đã chọn con đường thập giá, ngay cả trong những lúc đau khổ, tủi nhục nhất, Ngài đã chấp nhận để làm theo thánh ý của Thiên Chúa Cha vì yêu thương. Thế nên, Ngài đã thưa lên cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể thì xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con, một vâng theo ý Cha mà thôi”. Thưa ACE, khi biết thánh ý Chúa là Thánh Giá của Chúa Giêsu, chắc không mấy ai trong chúng ta cảm thấy vui và muốn làm theo. Thật vậy, trong cuộc sống, để thực thi theo thánh ý Chúa, hay để làm theo những gì mà Chúa Giêsu đã nêu gương, thì không dễ dàng một chút nào với tài sức của con người chúng ta cả, bởi vì, khi thi hành ý Chúa, chúng ta sẽ gặp biết bao khó khăn, thử thách, ngay cả những gian nan, đau khổ. Thế nên, để có thể làm theo những gì mà Chúa dạy, đòi buộc chúng ta phải thật vững tin vào Chúa để có sự lựa chọn thật kiên định, chỉ chọn Chúa, chỉ chọn làm theo ý Chúa mà thôi, chứ không chọn và làm theo ý riêng của mình.
Chính vì lẽ đó, mà Tin mừng hôm nay (Lc 9, 28b-36) để củng cố niềm tin của các môn đệ vào Chúa, để cho các ông có đủ sức mà chấp nhận cũng như tin vào Chúa và thực thi thánh ý của Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ vinh quang của Ngài, mời gọi các ông chiêm ngắm. Chỉ với một chút vinh quang của Chúa được hé lộ, trao ban trong cuộc biến hình này thì Phêrô, Giacôbê và Gioan đã bị choáng ngợp và thốt lên: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Nơi có sự hiện diện của Chúa, nơi ánh huy hoàng và vinh quang của Chúa được chiếu tỏa, đây thực sự là sự khích lệ, là nguồn an ủi, là sức mạnh cho các môn đệ.
Còn với mỗi người chúng ta, nơi có Chúa, nơi có sự hiện diện của Chúa là ở nơi nào mà Chúa đang muốn đem chúng ta đến để cho chúng ta được chiêm ngưỡng thánh nhan vinh hiển của Ngài? Chúa Giêsu đã dạy: “Nơi nào có hai hoặc ba người tụ họp vì danh Thầy, thì Thầy hiện diện ở giữa họ”. Thưa ACE, ngay trong lúc này, khi chúng ta đang phải đối diện với biết bao đau thương vì phải sống chung với dịch bệnh, bao đau khổ và ngay cả cái chết cũng đang gần kề với chúng ta, vậy thì, ánh sáng của Lời Chúa hôm nay có giúp ích được gì cho chúng ta, có làm cho chúng ta vững tin hơn vào Chúa? Thật ra, nơi mà Chúa đang muốn cho mỗi người chúng ta đó chính là các giờ kinh nguyện sớm tối trong gia đình, lúc tham dự Thánh Lễ hay trong những công việc đạo đức bác ái…những lúc như vậy, vinh quang của ơn thánh Chúa sẽ chiếu tỏa trên chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh của ân phúc để đủ sức mà tin vào Chúa, dấn thân theo Chúa và làm theo thánh ý Ngài.
Lạy Chúa, chúng con tin vào Chúa là Người Cha luôn yêu thương, chúng con muốn được ở với Chúa, chúng con muốn có Chúa hiện diện, ban ơn chúc phúc cho chúng con. Xin gia tăng niềm tin và lòng mến Chúa cho chúng con để nhờ thực thi thánh ý Chúa chúng con trở nên những người con sống đẹp lòng Chúa luôn. Amen.
Suy niệm 6: Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Biến cố Biến Hình vừa soi sáng mầu nhiệm Nhập Thể, đồng thời cũng vận mệnh nhân loại. Chúng ta sẽ khám phá mầu nhiệm này trong các bản văn của Chúa Nhật II Mùa Chay năm C này.
St 15: 5-12, 17-18
Lộ trình tâm linh của nhân loại được vén mở lên đến kinh nghiệm tôn giáo của ông Áp-ra-ham, vị tổ phụ đặt trọn niềm tin của mình vào những lời hứa của Chúa.
Pl 3: 17-4: 1
Theo thánh Phao-lô, cuộc Biến Hình của Đức Giê-su loan báo cuộc “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”, đó là giai đoạn cuối cùng lộ trình của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải trung tín.
Lc 9: 28-36
Trong bài trình thuật biến cố Biến Hình theo thánh Lu-ca, chúng ta suy gẫm biến cố này đối với Đức Giê-su, đối với các chứng nhân, từ đó chúng ta rút ra bài học cho chính mình.
BÀI ĐỌC I (St 15: 5-12, 17-18)
Chuyện tích này được trích từ “chuyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham từ chương 12: 1 đến chương 25: 18 sách Sáng Thế. Chuyện tích này tường thuật cuộc Thần Hiển. Nỗi sợ hãi của tổ phụ Áp-ra-ham trước việc Thiên Chúa tỏ mình ra có thể sánh ví với nỗi khiếp sợ của thánh Phê-rô và các bạn đồng môn vào lúc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài trong biến cố Biến Hình.
Đức Chúa tái khẳng định những lời hứa của Ngài cho tổ phụ Áp-ra-ham. Ngài đã hứa ban đất cho người du mục lang thang này (St 12: 2-3 và 12: 7) và cũng đã hứa ban một dòng dõi đông đúc như sao trên bầu trời như cát dưới bãi biển cho một cụ già hiện nay không con này (St 13: 14-16). Nhưng những lời hứa này chậm được thực hiện, vì thế, vị tổ phụ bắt đầu sốt ruột. Trước hết, Đức Chúa trấn an ông, đoạn đưa ra một lời cam kết long trọng được đóng ấn bởi một hy lễ.
1.Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của niềm tin
Đức Chúa tái khẳng định với tổ phụ Áp-ra-ham rằng ông sẽ có một đứa con nối dõi tông đường sinh ra từ huyết thống của ông (St 15: 4), đoạn Ngài bảo ông ngước mắt lên trời thử đếm các vị sao và nói với ông: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!”.
Đức Chúa mở ra cho vị tổ phụ một viễn cảnh không thể tin được, ấy vậy, “ông tin Đức Chúa”. Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước động từ “tin” xuất hiện. Theo ngôn ngữ Híp-ri, từ ngữ này có cùng ngữ căn với từ “A-men”, từ gợi lên sự vững bền, chắc chắn. Như vậy cuộc mạo hiểm của tổ phụ Áp-ra-ham không chỉ đánh dấu việc chào đời của một dân tộc, nhưng còn khai mào lịch sử của niềm tin, bước khởi đầu của lịch sử cứu độ. Tổ phụ Áp-ra-ham là người tín hữu đầu tiên; ông tin vào lời Thiên Chúa, bất chấp mọi sự việc có thể khiến ông nghi ngờ. Ông là cha của những người tin. “Đức Chúa kể ông là người công chính”, nghĩa là, ông sống một lòng một dạ với những gì Thiên Chúa chờ đợi từ ông. Chúng ta biết thánh Phao-lô sẽ khai triển thần học của mình từ câu này, qua đó thánh nhân sẽ minh họa đề tài đức tin của mình: chính nhờ đức tin, chứ không Lề Luật và công nghiệp của mình, mà chúng ta được ơn công chính hóa.
2.Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của Giao Ước:
Lời hứa thứ hai nhắm đến việc sở hữu đất. Đức Chúa lập lại lời hứa này cho ông Áp-ra-ham: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu”. Đây là biểu thức tiêu biểu cho phần dẫn nhập của một hiệp ước, như người ta đọc thấy trong nhiều bản văn miền Cận Đông, vào giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Vị bá vương đề xuất giao ước của mình, mở đầu với việc nhắc lại những ân lộc mà ông đã ban cho chư hầu của mình. Sách Xuất Hành dẫn nhập Thập Giới hay điều khoản Giao Ước Xi-nai theo cùng một cách như vậy: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20: 1).
3.Hy tế Giao Ước:
Tổ phụ Áp-ra-ham xin Thiên Chúa một dấu chỉ. Dấu chỉ này sẽ là một hy tế có tính chất đặc biệt, một hy tế giao ước. Trong loại giao ước này, những con vật bị sát tế, được xẻ đôi và hai bên ký kết đi qua giữa các tế vật xẻ đôi, nữa này đối diện với nữa kia, theo cách nào đó gợi lên số phận sẽ là như vậy, nếu hai bên không chu toàn những lời cam kết của mình. Từ đó, nguyên ngữ Híp-ri “cắt một giao ước” đồng nghĩa với ký kết một giao ước. Loại hy tế này còn được gợi lên vào thời ngôn sứ Giê-rê-mi-a khi Đức Chúa công bố Ngài sẽ trừng phạt những ai đã không tuân giữ huấn lệnh bảy năm một lần phóng thích những người nô lệ: “Những kẻ đó, Ta sẽ biến thành một con bò tơ cho người ta xẻ làm đôi và băng qua giữa hai phần” (Gr 34: 18).
4.Giấc ngủ mê:
“Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ra-ham”. Từ ngữ Híp-ri được dùng ở đây không chỉ giấc ngủ tự nhiên. Từ ngữ này chỉ xuất hiện trong Cựu Ước để diễn tả giấc ngủ siêu nhiên. Cũng một từ ngữ được dùng để chỉ giấc ngủ của nguyên tổ A-đam vào lúc Đức Chúa lấy cái xương sườn của ông để dựng nên người đàn bà. Chuyện tích về giấc ngủ của nguyên tổ A-đam và giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham đều có chung một tác giả Gia-vít. Giấc ngủ huyền nhiệm nầy muốn nói rằng con người không xứng đáng được nhìn thấy công việc của Thiên Chúa. Trong tất cả văn chương tôn giáo, giấc ngủ hay cái chết muốn nói lên cuộc vượt qua từ cuộc sống này đến cuộc sống khác cao vời hơn. Tổ phụ Áp-ra-ham sắp trở thành người cùng phe với Thiên Chúa, người được ân nghĩa với Thiên Chúa. Đức Chúa cam kết với ông, và lời cam kết này được chuẩn nhận bởi một hy tế.
Vì chính Thiên Chúa có sáng kiến ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham, nên chỉ mình Thiên Chúa, dưới hình ngọn lửa, đi băng qua giữa những tế vật: “Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bổng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật bị xẻ đôi”. Việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham căn cứ trên đức tin của tổ phụ và có tính cách đơn phương về phía chỉ một Thiên Chúa. Giao Ước Xi-nai sau này sẽ là Giao Ước được ký kết bởi đôi bên và căn cứ trên Lề Luật.
BÀI ĐỌC II (Pl 3: 17-4: 1)
Trước khi đề cập đến câu chuyện Biến Hình theo Tin Mừng Lu-ca, chúng ta đọc đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh nhân nói về cuộc thay hình đổi dạng của chính chúng ta. Khi nói về cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta, thánh nhân không trực tiếp dựa trên sự kiện Biến Hình của Chúa Ki-tô, nhưng trên cái lô-gíc của biến cố Phục Sinh. Quả thật, thánh Phao-lô trước tiên là nhà thần học về biến cố Phục sinh: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”.
Xin được nhắc lại rằng thánh Phao-lô thành lập Giáo Đoàn Phi-líp-phê, thuộc miền Ma-xê-đô-ni-a, vào những năm 49-50. Bức thư mà thánh nhân gởi cho cộng đoàn này xem ra được viết vào năm 56 hay 57, lúc đó, thánh nhân đang bị cầm tù, chắc chắn ở Ê-phê-xô.
1.Bắt chước thánh Phao-lô như thánh nhân bắt chước Đức Ki-tô:
Thánh Phao-lô đã sinh ra các tín hữu Phi-líp-phê trong đức tin; lòng nhiệt thành tông đồ của thánh nhân được sánh ví với nỗi bận lòng của một người cha mong muốn con cái noi gương mình mà sống phù hợp với giáo huấn của Đức Ki-tô: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Thánh nhân liên kết những cộng tác viên của mình vào chung cùng mẫu gương mà thánh nhân đưa ra. Đây không là lần duy nhất thánh nhân diễn tả ước nguyện của mình (x. 1Cr 4: 16; 11: 1; 1Tx 1: 6; 2Tx 3: 7-9). Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân xác định: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô” (1Cr 11: 1).
2.Hai con đường:
Thánh Phao-lô phác họa hai bức tranh tương phản: bức tranh thứ nhất nêu lên tất cả những người “chỉ nghĩ đến những sự thế gian” và bức tranh thứ hai nói về những công dân Nước Trời.
Ở đây, chúng ta nhận ra đề tài kinh điển về hai con đường như trong Thánh Vịnh 1, sách Đệ Nhị Luật (11: 26-28; 30: 15-20), sách Châm Ngôn (8: 32-36), cũng như sự đối lập giữa hai con đường thường được sử dụng trong các giáo huấn của các kinh sư. Chúa Giê-su lấy lại kiểu nói này trong dụ ngôn của Ngài về hai con đường: con đường thênh thang dẫn đến họa diệt vong, còn đường chật hẹp thì dẫn đến sự sống. Theo giáo huấn của thánh Phao-lô, con đường dẫn đến họa diệt vong là con đường mà những kẻ phóng đãng, những kẻ trụy lạc đi theo: “Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn”. Tuy nhiên, qua những từ ngữ này, chúng ta không thể loại trừ rằng thánh Phao-lô nhắm đến những Ki-tô hữu gốc Do thái vẫn duy trì quá mức những kiêng cử đồ ăn thức uống theo luật Mô-sê; còn trầm trọng hơn nữa, họ vẫn cứ đòi buộc những người Ki-tô hữu gốc lương dân phải chịu phép cắt bì. Quả thật, kiểu nói: “cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn” gợi lên điều này, bởi vì thánh nhân vừa mới bàn đến những kẻ cắt bì giả mạo và những người cắt bì đích thật, tức là những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Giê-su Ki-tô, chứ không cậy vào tính xác thịt (Pl 3: 2-3).
3.Trời và Đất:
Dù thế nào, thánh Phao-lô đối lập những công dân Nước Trời với những người mà Chúa của họ là cái bụng. Dường như thánh nhân đã chọn kiểu nói này khi quy chiếu đến thể chế chính trị đặc thù của thành phố Phi-líp-phê. Thành phố này là thuộc địa của Rô-ma, dân cư có “quyền công dân”; vì thế họ là công dân Rô-ma. Thánh nhân nói cho họ biết rằng quê hương đích thật của người Ki-tô hữu là Nước Trời.
Chính ở nơi tước vị công dân Nước Trời này mà chúng ta mong đợi cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta”. Thánh Phao-lô dùng cùng những ngôn từ như khi thánh nhân nói về Đức Ki-tô trong bài thánh thi ở đầu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này. Như vậy, sau khi tự hạ mình và chịu chết, Đức Ki-tô được tôn vinh để đảm bảo cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta.
TIN MỪNG (Lc 9: 28-36)
Câu chuyện Biến Hình được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Mỗi năm trong ba năm phụng vụ trình bày một trong ba bài trình thuật này vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Vào Phụng Vụ Năm C này, chúng ta đọc bài trình thuật theo thánh Lu-ca.
Xét về cơ bản, cả ba bài trình thuật khá giống nhau. Tuy nhiên, chính những sắc thái của mỗi bài trình thuật làm cho chúng khác nhau. Thánh Lu-ca đem đến những xác định riêng của mình. Trước tiên, thánh Lu-ca gợi lên khoa thần học về vinh quang được liên kết với viễn cảnh của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh; nhờ sắc thái này, bài trình thuật của thánh Lu-ca mang một âm hưởng của Tin Mừng Gioan. Người ta đã nghĩ rằng nguồn thông tin của thánh Lu-ca đã có thể là thánh Gioan, một trong ba nhân chứng trực tiếp của biến cố Biến Hình này.
Thứ nữa, như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca định vị biến cố Biến Hình chỉ vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời loan báo đầu tiên của Chúa Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Tuy nhiên, thánh Lu-ca đặt lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ngay liền biến cố “hóa bánh ra nhiều” như thánh Gioan, chứ không sau này như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu.
Ngoài ra, thánh Lu-ca cũng khác biệt với hai Tin Mừng nhất lãm kia về một điểm có ý nghĩa khác, ngay trước bài trình thuật của mình về cuộc Biến Hình. Khi Chúa Giê-su loan báo cho các môn đệ của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp tới của Ngài, Ngài liên kết lời loan báo của Ngài với hai thị kiến để làm yên lòng các môn đệ: thị kiến “Con Người từ cõi chết sống lại” và thị kiến “Con Người ngự đến trong vinh quang”. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu viết: “Con Người ngự đến trong vinh quang của Cha Người” (Mc 8: 38; Mt 16: 27); còn thánh Lu-ca đính chính: “Người ngự đến trong vinh quang của mình và vinh quang của Chúa Cha” (Lc 9: 26). Theo thánh Lu-ca, vinh quang của chính Đức Giê-su sẽ là một nét đặc trưng trong bức tranh về biến cố Biến Hình.
Chúng ta khảo sát biến cố Biến Hình này dưới hai khía cạnh: biến cố Biến Hình được sống bởi Đức Giê-su và biến cố Biến Hình được sống bởi các nhân chứng.
1.Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su:
A-Đức Giê-su cầu nguyện:
“Đức Giê-su lên núi cầu nguyện”. Địa danh của Núi không được nêu tên, có lẽ một ngọn đồi miền Ga-li-lê mà Đức Giê-su có thói quen rút lui một mình. Nhưng trong Kinh Thánh, núi được liên kết với mặc khải của Thiên Chúa. Vả lại, núi này sắp mặc lấy một dáng dấp núi Xi-nai trong vài giây phút. Hơn nữa, khi kể ra việc Chúa Giê-su lên núi cầu nguyện, thánh Lu-ca có chủ ý nhấn mạnh thái độ này của Đức Giê-su. Quả thật, chỉ một mình thánh Lu-ca kể ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện vào giây phút này, cũng như chỉ một mình thánh Lu-ca đã chỉ ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện khi Ngài chịu phép rửa của Gioan Tầy Giả. Trong cả hai trường hợp, “Trời” đã đáp trả bằng mặc khải hầu như giống nhau.
Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, “dung mạo của Ngài bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Thánh Lu-ca mô tả những thay đổi như vậy để tránh kiểu nói: “biến đổi hình dạng” được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu sử dụng, bởi vì đối với thánh Lu-ca, kiểu nói: “biến đổi hình dạng” âm vang ngôn từ ngoại giáo. Như vậy, thánh Lu-ca định vị biến cố Biến Hình ở lòng cuộc sống nội tại của Chúa Giê-su, như một thực tại thần bí xuất phát từ chính Chúa Giê-su; Ngài không đón nhận biến cố này từ bên ngoài; vào lúc đó, nhân cách thực sự của Ngài được bày tỏ ra một cách tỏ tường.
B-Sự hiện diện của hai nhân chứng có thế giá: ông Mô-sê và ông Ê-li-a:
“Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a”. Rõ ràng, thánh ký ám chỉ luật Mô-sê, theo đó tính xác thực của một sự kiện chỉ được chấp nhận nếu ít nhất có hai nhân chứng (Đnl 19: 15). Cả hai nhân vật này: ông Mô-sê và ông Ê-li-a, đều đã gặp gỡ Thiên Chúa trên núi thánh; và cả hai, theo truyền thống, đều được đưa lên trời bên cạnh Thiên Chúa một cách mầu nhiệm: ông Ê-li-a được đưa lên trời trên một chiếc xe lửa, trước mắt của người môn đệ mình là ông Ê-li-sê (2V 11-12); còn ông Mô-sê, không ai đã thấy ngôi mộ của ông (Đnl 34: 5-6). Chắc chắn ông Mô-sê tiêu biểu Lề Luật, còn ông Ê-li-a đại diện trào lưu ngôn sứ, nhưng trên hết, không ai xứng đáng hơn hai nhân vật này làm chứng về Đấng Mê-si-a.
“Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển”. Đây là lời ghi chú riêng của thánh Lu-ca, ông Mô-sê và ông Ê-li-a được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa. “Họ nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Chỉ một mình thánh Lu-ca xác định điều này. Từ “xuất hành” gợi lên rằng Chúa Giê-su là Mô-sê mới, Đấng sắp giải phóng con người khỏi cảnh đời nô lệ và hướng dẫn dân Ít-ra-en Mới về vương quốc Thiên Chúa, qua cuộc Vượt Qua của Ngài từ Tử Nạn đến Phục Sinh.
Như vậy, biến cố Biến Hình nhằm củng cố niềm tin của chúng ta: hậu cảnh của cuộc quy tụ ở trên núi Biến Hình này là đồi Gôn-gô-tha và vinh quang sau này của Ngài. Vào lúc Chúa Giê-su khởi sự phần khó khăn nhất của sứ mạng Ngài, Ngài nhận được niềm an ủi đặc biệt. Chúa Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp đi qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi nhập thể, và vào lúc này Ngài lấy lại một thoáng ánh vinh quang này. Biến cố Biến Hình là sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng bậc nhất mà Chúa Giê-su đã đón nhận trong suốt sứ vụ của Ngài, ít ra trong chừng mực mà chúng ta có thể biết.
2.Biến cố Biến Hình đối với ba môn đệ:
A-Họ sẽ là những nhân chứng:
Đức Giê-su “đem theo các ông Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê”. Đây cũng là ba vị Tông Đồ mà Chúa Giê-su cũng đã chọn làm nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái của viên trưởng hội đường, ngõ hầu họ hiểu một cách chính xác mối liên hệ giữa Biến Hình và Phục Sinh. Cũng chính ba người môn đệ này mà Chúa Giê-su sẽ đem theo riêng với Ngài vào vườn Ô-liu ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài.
B-Giấc ngủ của ba môn đệ:
Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, các môn đệ “ngủ mê mệt”. Sự kiện chính xác sẽ được tái diễn ở vườn Ô-liu ở đó cũng chính ba môn đệ này ngủ mê mệt. Chắc chắn là giấc ngủ tự nhiên, trừ phi là một trong trong những giấc ngủ đánh dấu khoảng cách giữa con người và mầu nhiệm Thiên Chúa, như giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham trong Bài Đọc I, hay giấc ngủ của ông A-đam trong sách Sáng Thế.
“Khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giê-su và hai nhân vật đứng bên Người”. Việc kể ra vinh quang của Chúa Giê-su ở trung tâm bài trình thuật của thánh Lu-ca khiến người ta nghĩ đến Tựa Ngôn của Gioan: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Sau này, thánh Phê-rô và các bạn đồng môn của ông sẽ phải đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút này lại chiêm ngưỡng cũng một Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật nổi danh của lịch sử Ít-ra-en. Núi Biến Hình là phản đề của đồi Gôn-gô-tha.
C-Cuộc Thần Hiển:
Thánh Phê-rô, bốc đồng và nhiệt thành, muốn thời gian dừng lại, cố định thị kiến này mãi mãi. Thánh nhân đề nghị dựng ba cái lều, một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a; thánh nhân không nghĩ đến mình, cũng như các bạn đồng môn của mình. Nhưng “ông không biết mình đang nói gì” vì biến cố vượt quá khả năng hiểu biết của thánh nhân.
“Ông còn đang nói, thì bổng có một đám mây bao phủ các ông”, như quyền năng của Chúa Thánh Thần đã bao phủ Đức Ma-ri-a, và như Đám Mây trong Cựu Ước biết bao lần vừa bày tỏ vừa che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa, đó cũng là đám mây trên đó Con Người sẽ ngự xuống vào ngày cánh chung…
“Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ”. Đám mây này bao phủ các ông, như vậy hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông với mầu nhiệm của Ngài, vào trong bí mật của một mặc khải mà các ông sẽ không dám thuật lại cho bất kỳ ai về những điều mình đã chứng kiến.
Một tiếng nói vang lên ngỏ lời với các ông công bố Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Cha đã chọn, như vào lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng thêm vào một mệnh lệnh khẩn thiết: “Hãy vâng nghe lời Người”. Mệnh lệnh này chắc chắn ám chỉ đến kinh “Shema Israen”, kinh bắt đầu với lệnh truyền: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”. Thánh Phê-rô và các bạn đồng môn đại diện dân Ít-ra-en mới.
“Hãy vâng nghe lời Người!”: mọi điều Thiên Chúa muốn nói cho nhân loại Ngài đã nói qua Đức Ki-tô, thời gian viên mãn đã đến (x. Dt 1: 1). Thánh Gioan Thánh Giá giải thích: “Hãy chăm chú nhìn vào một mình Ngài, vì ở nơi Ngài Ta đã nói và mặc khải cho con mọi điều, và ở nơi Ngài con sẽ gặp thấy thậm chí nhiều hơn điều con xin và ước muốn… Hãy lắng nghe Ngài, vì Ta không có thêm niềm tin để mặc khải, cũng không có thêm những điều gì để tuyên bố” (Ascent o f Mount Carmel, book 2, chap. 22, 5).
3.Bài học của biến cố Biến Hình:
Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su củng cố đức tin của các môn đệ Ngài bằng cách mặc khải thân thể vinh quang của Ngài sau khi Ngài sống lại. Ngài muốn họ nhận ra rằng cuộc Tử Nạn của Ngài sẽ không là dấu chấm hết, nhưng đúng hơn con đường Ngài phải đi qua để đạt đến vinh quang của Ngài. “Đối với một người đi liền một mạch trên đường, người ấy phải có một sự hiểu biết nào đó về cùng đích – giống như một cung thủ sẽ không bắn liền ngay mũi tên trừ khi trước hết người ấy thấy mục tiêu… Điều này đặc biệt cần thiết nếu con đường thì cam go hay gập ghềnh, cuộc ra đi nặng nhọc, thì cùng đích lại thú vị” (St Thomas Aquinas, Summa theologiae, III, q. 45, a. 1).
Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su vén mở một trong những phẩm chất của thân thể được tôn vinh, thân thể của các thánh sẽ rạng ngời vinh hiển như lời của Đức Giê-su được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu: “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ” (Mt 13: 43). Về phẩm chất thân xác được tôn vinh này, thánh Phao-lô khi thì gọi vinh quang: “Gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang” (1Cr 15: 43), khi khác thì gọi vinh hiển: “Người có quyền năng… mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 21). Về vinh quang này, dân Ít-ra-en đã chiêm ngắm một hình bóng nào đó trong sa mạc, khi gương mặt của ông Mô-sê, sau cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Thiên Chúa trên núi Xi-nai, đã chói sáng rạng rỡ đến mức họ không thể nhìn vào gương mặt của ông (Xh 34: 29; 2Cr 3: 7). Tất cả mọi thân thể của các thánh sẽ không bị hư nát, nhưng dự phần vào hạnh phúc viên mãn bên cạnh Thiên Chúa.