Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4, 24)
Suy Niệm Lời Chúa
Thứ Hai Tuần 3 Mùa Chay
Ngày 21/03/2022
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Luca : Lc 4, 24-30
Khi ấy, Đức Giêsu nói với dân chúng rằng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê nhà của mình. Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Sarepta miền Siđôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi.” Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
Suy niệm 1: Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Trong Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe
về kết cục khá bất ngờ và đau đớn của Đức Giêsu
khi Ngài trở về với hội đường của làng Nazareth thân quen.
Nơi đây Ngài gặp lại những người đồng hương.
Họ ngỡ ngàng trước những lời Ngài giảng.
Họ muốn Ngài làm những điều Ngài đã làm ở Caphácnaum (Lc 4, 23).
Nhưng Đức Giêsu đã đáp lại bằng câu tục ngữ:
“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê nhà của mình” (c. 24).
Đức Giêsu tự nhận mình là một ngôn sứ.
Như những ngôn sứ khác trong lịch sử Israel,
Ngài cũng không được đón nhận và tin tưởng bởi những người cùng quê.
Họ nghĩ mình đã quá biết Ngài, biết gia tộc, biết nghề nghiệp,
biết quá khứ từ ấu thơ đến lúc trưởng thành.
Chính cái biết ấy, đúng nhưng không đủ,
lại trở thành một chướng ngại cho việc họ nhận ra Ngài thật sự là ai.
“Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4, 22).
Đúng Ngài là con ông Giuse, một người thợ mộc.
Đúng ngài là ông thợ mộc độc thân người làng Nazareth.
Giêsu Nazareth là tên được ghi trên thập tự,
Nazareth sẽ mãi mãi đi với tên Ngài để phân biệt ngài với những Giêsu khác.
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường Nazareth, quê nhà của mình.
Ngài quen biết những khuôn mặt trong hội đường này và yêu mến họ.
Nhưng sứ mạng của Ngài trải rộng hơn Nazareth nhiều.
Ngài cho thấy mình không bị trói buộc bởi mối dây làng xã,
cũng không bị giữ chân bởi những người đồng bào cùng tôn giáo.
Để biện minh cho thái độ rộng mở của mình,
Đức Giêsu đã nhắc đến hành động của hai vị ngôn sứ thời Cựu Ước.
Êlia, vị ngôn sứ đầy quyền năng, được Thiên Chúa sai đến với một bà góa.
Bà này là một người dân ngoại sống ở Siđôn vùng dân ngoại.
Êlisa, vị ngôn sứ học trò của Êlia, đã chữa bệnh phong cho Naaman.
Ông này là người dân ngoại, chỉ huy đạo quân của Syria.
Như thế các vị ngôn sứ nổi tiếng đã không bị bó hẹp trong dân Do thái.
Họ đã mở ra với dân ngoại.
Đức Giêsu cũng chẳng bị giới hạn bởi bất cứ biên cương nào.
Ngài chẳng dành cho quê nhà Nazareth một ưu tiên nào.
Phải chăng vì thế mà Ngài làm họ phẫn nộ đến độ muốn xô Ngài xuống vực?
Nỗi đe dọa lại đến từ chính những người đồng hương.
Làm sao chúng ta nhận ra và chấp nhận những ngôn sứ bề ngoài rất bình thường
đang sống trong cộng đoàn chúng ta hôm nay?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Suy niệm 2: Lm. Giuse Đinh Tất Quý
1. Bài đọc I kể chuyện tiên tri Êlisê chữa bệnh cùi cho ông Naaman, một người ngoại đạo.
Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện tiên tri Êlia giúp cho một bà góa – cũng ngoại đạo – ở xứ Sarepta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng, Chúa không thiên vị ai. Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù là người ngoại nhưng nếu họ tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng lại không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
Chúng ta thấy ban đầu vì kiêu căng, tướng Naaman đã không chịu đến với một tiên tri xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông đã không chịu đi tắm ở sông Giodan mà ông cho là quá nhỏ và thua kém xa những con sông trong nước của ông. Thế nhưng, sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê, làm theo lời chỉ dạy của Êlisê mà ông đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy những nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
Đối với những người đồng hương ở Nazareth, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa đã chọn Nazareth làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là ơn đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: vì họ không tin nên Ngài không làm phép lạ cho họ.
2. Có lẽ ngày nay nhiều người cũng vẫn còn nghĩ một cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại đạo” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra, Thiên Chúa là Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay, chẳng thiếu gì những người như bà góa xứ Sarepta và tướng quân Naaman được Chúa thương. Còn những người có đạo tự hào mình là người có đạo, coi chừng lại bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi” (Lc 4,30) giống như ở làng Nazareth thuở xưa.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay kết thúc không có hậu, không phải vì Chúa muốn như thế, nhưng là do thái độ của những người làng Nazareth chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ muốn được ban ơn, mà không biết mở rộng cõi lòng ra để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đang cần ơn cứu độ bên cạnh mình.
Trong một cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn, có diễn lại câu chuyện sau: một thanh niên đang lim dim đôi mắt để tận hưởng những ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do những tiếng ồn ào của đám trẻ. Tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại, mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường cách âm để ngăn chặn các âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn dần, cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động lúc đó anh mới bằng lòng. Thế nhưng, anh có ngờ đâu rằng, khi ngăn chặn được hết các âm thanh thì lúc đó bức tường cũng che mất hết ánh nắng tuyệt vời. Bức tường đã trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội trong ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Họ tưởng đã xây lên được bức tường để bảo vệ niềm tin của mình nhưng hóa ra lại tự hại chính mình.
Nhiều khi chúng ta tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gãy đổ. Đó là thứ niềm tin được chứng minh bằng tấm giấy rửa tội, chứ không phải đức tin của đời sống.
Nếu chỉ đóng khung trong một số nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ xa rời cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoàn không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em như vậy.
Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng để đón nhận được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.
Lạy Chúa,
Xin cho con một quả tim quảng đại như Chúa
vượt lên mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con một quả tim đủ lớn
để yêu những người con không ưa.
và đôi tay rộng mở
để có thể ôm cả những kẻ thù. Amen
Suy niệm 3: TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã gặp chống đối ngay tại quê hương, nơi những người thân không chấp nhận đường lối và cách thức Chúa thể hiện sứ mạng cứu độ. Chúng ta đừng bao giờ khước từ hoặc chống lại Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chỉ người nào có đức tin mới hiểu được đường lối của Chúa. Và chỉ kẻ nào có lòng yêu mến mới đón nhận được tình thương của Chúa. Chúa ơi, chắc chắn Chúa rất đau lòng khi đứng trước thái độ của người đồng hương. Họ không đón nhận, không nghe những lời Chúa giảng dạy, không muốn sự có mặt của Chúa. Họ đã đuổi Chúa ra khỏi hội đường, ra khỏi thành, nhẫn tâm đưa Chúa lên triền núi để xô xuống vực thẳm.
Lạy Chúa, con thấy hình ảnh đó vẫn diễn ra hằng ngày trong bối cảnh thế giới hôm nay, trong tầng lớp Kitô hữu là những người thân thuộc của Chúa. Chúa đang bị từ chối nơi biết bao người nghèo hèn, nơi những kẻ bị bỏ rơi, nơi những quốc gia đang bị kỳ thị chủng tộc, phân biệt giàu nghèo, hận thù dai dẳng.
Chính con cũng bao lần từ chối Chúa khi con từ chối giúp đỡ anh em. Con đã đẩy Chúa ra khỏi tâm hồn khi con ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, khi con không chịu hồi tâm, không chịu ăn năn sám hối để trở về với Chúa. Con cũng đã không đón nhận Chúa khi con không chấp nhận Ý Chúa mà chỉ muốn Chúa đáp ứng lời con cầu nguyện theo ý con.
Lạy Chúa, xin tha thứ những lỗi lầm của con và xin cho con luôn mở rộng tâm hồn để đón tiếp Chúa. Xin ban cho con một trái tim yêu thương biết đón nhận Chúa nơi anh em, để trong từng giây từng phút của ngày sống, trong từng công việc dù nhỏ bé, mọn hèn, con đều có Chúa hiện diện bên con. Amen.
Ghi nhớ: “Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Suy niệm 4: Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Phân tích (Hạt giống…)
1. Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho Naaman một người ngoại đạo.
2. Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện ngôn sứ Êlia giúp cho một bà góa – cũng ngoại đạo- ở xứ Sarépta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
3. Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng Chúa không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
B. Suy niệm (…nẩy mầm)
1. Vì kiêu căng, ban đầu, tướng Naaman không chịu đến với một ngôn sứ xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông không chịu đi tắm ở sông Giođan nhỏ bé. Nhưng sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê và đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
2. Đối với những người đồng hương ở Nadarét, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa chọn Nadarét làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: nếu họ không tin thì Ngài không làm phép lạ cho họ.
3. Có lẽ mãi đến thời nay nhiều người vẫn còn nghĩ cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay vẫn có những người như bà góa xứ Sarépta và tướng quân Naaman được Chúa thương đến. Còn những người có đạo cũng có thể giống như dân làng Nadarét, bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi”.
4. Kết thúc không đẹp của câu chuyện Tin Mừng hôm nay là do những người làng Nadarét có thái độ chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ chờ được ban ơn, không biết mở rộng cõi lòng để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đàng cần ơn cứu độ.
Suy niệm 5: Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Chúa bị quê hương từ chối (Lc 4,24-30)
- Đức Giêsu trở về quê hương, vào hội đường Nazareth ngày thứ bảy. Người ta trao cho Ngài sách tiên tri, để Ngài đọc và giải thích. Lúc đầu họ cảm phục tài hùng biện và dáng vẻ thuyết phục của Ngài. Nhưng sau, họ bực tức, vì thấy Ngài ưa thích Capharnaum, nơi dân ngoại nhiều hơn quê mình. Trước thái độ đó, Đức Giêsu tỏ bày cho dân làng biết sứ vụ thiên sai của Ngài.
Đồng thời Chúa cũng cho họ biết rằng Ngài không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng nhận ơn Ngài.
- “Tôi bảo thật các ông…”
Đức Giêsu dựa vào câu ngạn ngữ này để diễn tả thân phận của Ngài tại quê hương:
Gần chùa gọi bụt bằng anh.
Bụt nhà không thiêng.
Quen quá hoá nhàm.
Thật vậy, những người đồng hương trong làng Nagiarét tưởng rằng, họ đã biết rõ Ngài: gốc gác, lý lịch; người đã từng chung sống, đọc kinh cầu nguyện chung từ tấm bé. Nên họ chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, mà không thấy được Thiên tính của Ngài để tin vào Ngài.
- “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay…”
Để dẫn chứng cho ý nghĩa cho câu ngạn ngữ trên đây, Đức Giêsu đã trưng ra hai sự kiện có tính lịch sử, để hiểu:
– Tiên tri Êlia đã không được sai đến để cứu đói cho bà goá nào trong dân Israel, ngược lại, cứu đói cho bà góa thành Sarepta miền Siđon là dân ngoại.
– Tiên tri Êlisê cũng không được sai đến chữa lành bệnh phong cho người nào trong dân Israel, nhưng lại được sai đến chữa trị cho Naaman, người Syria, cũng là dân ngoại.
Hai sự kiện trên muốn nêu lên rằng: các tiên tri tuy thuộc dân Israel, nhưng không được dân mình thiện cảm, lại được thiện cảm nơi dân ngoại, vì thế, dân ngoại được hưởng nhờ. Cũng vậy, Đức Giêsu không được thiện cảm nơi người đồng hương, vì họ đòi hỏi hơn là đón nhận Người. Còn dân ngoại ở Capharnaum tin nhận Ngài, nên được hưởng nhờ ân sủng qua các phép lạ Ngài làm.
- “Ơn cứu độ được dành cho mọi người”
Qua sự kiện của tiên tri Êlia và Êlisê, chúng ta nhận ra rằng: Điều kiện để được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa, là đức tin và ý hướng tốt lành. Vì vậy, dù là Israel hay dân ngoại, nếu biết tin nhận vào Đức Giêsu, và có ý hướng tốt lành thì đều được hưởng ơn cứu độ.
Qua hai sự kiện trong Cựu ước, Đức Giêsu nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông, để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđon dân ngoại, vì bà tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi, còn những người đồng quê với tiên tri lại càng cứng lóng tin.
- Hãy tránh thành kiến cố hữu.
Dân làng Nazareth dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” và trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài, khi đưa Ngài lên núi cao mà xô vào vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau… mang con tim hận thù.
Như chúng ta đã biết, thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người không ai thoát khỏi: “Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì lại vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.
- Truyện: Sư huynh hỗn xược
Ở Canađa, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement Chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.
Một hôm trường đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ viện trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.
Vị thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 giáo sư và sinh viên.
Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ.
Cả trường đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức như lần này chưa ? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế ?
… Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng: sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh… thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các sư huynh… để thực tập một phen!
Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một sư huynh” chưa từng thấy này.
Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mãnh liệt đến chừng nào (Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).