“Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc” (Mt 21,42).
Suy Niệm Lời Chúa
Thứ Sáu Tuần 2 Mùa Chay
18/03/2022
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu: Mt 21, 33-43.45-46
Khi ấy Đức Giêsu nói với các thượng tế và kỳ lão trong dân rằng: “Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: ‘Chúng sẽ nể con ta’. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: ‘Ðứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!’ Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” Họ đáp: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.” Ðức Giêsu bảo họ: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao:
‘Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.
Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta’
Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.” Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ đám đông, vì đám đông cho Người là một ngôn sứ.
Suy niệm 1: Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội cho chúng ta nghe dụ ngôn những tá điền.
Những tá điền này được chủ nhà cho canh tác vườn nho của mình,
để đến mùa hái nho họ giao lại cho ông hoa lợi.
Đây là một vườn nho được ông chủ quan tâm săn sóc.
Ông đã trồng, đã rào giậu, khoét bồn đạp nho và xây tháp canh.
Tiếc thay, khi ông chủ sai các đầy tớ đến để thu hoa lợi
các tá điền chẳng những không nộp, mà còn hành hạ họ và giết đi (c. 35).
Nhóm đầy tớ thứ hai cũng chịu chung số phận (c. 36).
Nhưng ông chủ vẫn không thất vọng trước sự độc ác của các tá điền.
Sau cùng, ông đã sai chính con trai mình đến với họ.
Đứa con thừa tự cũng chẳng được nể vì, bị lôi ra khỏi vườn nho và giết đi.
Khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu muốn nói mình chính là người con ấy,
người Con của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.
Ngài tiên báo về cái chết sắp đến của mình
bởi tay những tá điền sát nhân là các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời.
Cái chết của Đức Giêsu nằm trong chuỗi những cái chết của các ngôn sứ
là các đầy tớ đã được Thiên Chúa sai đến với dân Ítraen trong dòng lịch sử.
Tuy nhiên, cái chết ấy đặc biệt cao quý vì là cái chết của chính Người Con.
Hơn thế nữa, cái chết ấy không phải là một dấu chấm hết.
Nó là cánh cửa mở ra một trang mới của lịch sử,
không phải chỉ là lịch sử của dân tộc Ítraen, mà còn của cả nhân loại.
“Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.
Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 42).
Giáo Hội sơ khai thích dùng trích dẫn trên đây của thánh vịnh 118, 22
để nói về việc Đức Giêsu bị loại trừ và được tôn vinh (x. Cv 4,11; 1Pr 2,7).
Bị loại bỏ là việc độc ác của con người,
còn trở nên viên đá góc là việc làm kỳ diệu của Thiên Chúa.
“Thu hoa lợi”, “nộp hoa lợi”, “sinh hoa lợi” (cc. 34, 41, 43).
Hoa lợi là điều mà ông chủ nhắm tới khi ông đầu tư cho vườn nho.
Ông đã không thu được hoa lợi gì từ những tá điền độc ác,
bởi đó ông đã lấy vườn nho lại, cho người khác làm để lấy hoa lợi.
Vườn nho bây giờ được hiểu là Nước Thiên Chúa.
Nước này không còn nằm trong tay giới lãnh đạo dân Do thái nữa,
nhưng được trao cho một dân biết sinh hoa lợi (c. 43).
Dân mới ấy chính là Giáo Hội phổ quát,
trong đó gồm cả dân ngoại và những người Do thái tin Đức Giêsu.
Chúng ta thuộc về Giáo Hội, thuộc về đoàn dân mới.
Chúng ta hãnh diện vì được trao phó vườn nho là Nước Thiên Chúa,
và lo lắng trước trách nhiệm phải sinh hoa lợi cho xứng ở đời này.
Làm thế nào để Giáo Hội nộp hoa lợi đúng mùa cho Chủ?
Làm thế nào để chúng ta không rơi vào tội của các tá điền đi trước?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con thường thấy mình không có thì giờ,
nhưng đồng thời cũng thấy mình
lãng phí bao thời gian quý báu.
Nhiều khi con tự hỏi
mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.
Xin cho con biết quý trọng từng giây phút
đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,
để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.
Xin cho con luôn làm việc như Chúa :
hăng say, tận tụy và vui tươi,
vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.
Vì quá khứ thì đã qua,
và tương lai thì chưa đến,
nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.
Xin cho con thấy Chúa
lúc này đang ở đây bên con,
và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài
bằng những hành động cụ thể.
Con xin hiến dâng Chúa giây phút này
như một hy lễ,
với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.
Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại
để hiện tại đưa con vào vĩnh cửu của Chúa. Amen.
Suy Niêm 2: Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa,
mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”. (Mt 21,43)
1. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta nhìn vào Chúa Giêsu như một Giuse mới. Giuse cũ trong Cựu Ước đã lấy ơn để trả oán. Chúa Giêsu – Giuse mới trong Tân Ước còn hay hơn: Không phải chỉ lấy ơn trả oán mà còn lấy cái chết để cứu chuộc cả những người hành hạ mình nữa. Việc làm của Chúa quả là một việc lạ thường, con người khó mà hiểu nổi.
“Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc” (Mt 21,42).
Viên đá mà “những người thợ xây” – tức loài người chúng ta – coi là đồ bỏ, thì Thiên Chúa đã biến thành tảng đá góc tường. Xin mở một dấu ngoặc: Vào thời Chúa Giêsu, khi phải xây ngôi nhà có mái vòm lớn trên nóc, người ta phải có một viên đá đặt ở trên chóp đỉnh để chịu lực. Viên đá đó có một vai trò rất đặc biệt. Nó giữ cho những viên ngói trên mái vòm được liên kết với nhau nhờ thế mà cả mái vòm được đứng vững. Khi ví mình như một viên đá góc, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: Hãy nhìn mọi sự trong tinh thần lạc quan, không được phép thất vọng hay buồn phiền, nhất là khi phải đối diện với những bất công khổ đau trong cuộc sống.
Ở Mỹ có một tảng đá rất nổi tiếng. Đó là tảng đá Balebon tại tiểu bang California.
Ngày nọ, có một người dân làm đơn khiếu nại sở Kiều lộ. Người này báo động rằng vì nạn đất chùi, tảng đá này có thể đổ xuống làm hư nhà cửa của họ; và thế là với hai chiếc trực thăng yểm trợ cho hai xe cẩu loại lớn, người ta đã đưa tảng đá lên xa lộ.
Theo dõi câu chuyện trên đài truyền hình, một người Úc nọ đã đến xin mua tảng đá ấy. Sở Kiều lộ của thành phố đã bán tảng đá này với giá 100 Mỹ kim. Những người có trách nhiệm của thành phố đã mừng thầm vì cảm thấy ít ra cũng có người giúp họ di chuyển cái “của nợ” ấy đi. Sau đó, người Úc kia đã bỏ ra 20.000 Mỹ kim nữa để thuê xe chuyên chở tảng đá ấy về nhà, và sau bốn tháng miệt mài làm việc, anh đã tạc được chân dung của một tài tử nổi tiếng chuyên đóng phim cao bồi. Đó là món quà quí nhất mà người này dành cho tài tử yêu quí trước khi nhắm mắt lìa đời. Không bao lâu sau đó, tác phẩm ấy đã được bán cho một người chuyên sưu tầm tượng ảnh với giá một triệu Mỹ kim.
Tảng đá Balebon trên đây đã bị nhiều người xem là một “của nợ”, nhưng một người Úc đã nhìn ra những giá trị tiềm ẩn trong đó. Nó đã trở thành một thách đố để thực hiện một công trình vĩ đại. Và cuối cùng, công trình đã được hoàn thành. Từ một tảng đá đáng bỏ đi nó đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật và giá trị của nó không thể ngờ được.
Trước Công nghị Do Thái, thánh Phêrô đã giải thích về cái chết của Chúa Giêsu, với câu nói thời danh: “Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở thành viên đá góc tường” (Cv 4,11).
2. Hãy nhìn vào tấm gương đó để chúng ta bắt chước.
Thời Xuân Thu chiến Quốc, nước Sở và nước Lương có chung biên giới và dân cư của hai nước sống ở gần biên giới đều trồng dưa. Người bên nước Lương, vì chịu khó vun xới chăm bón cho nên dưa tốt, quả nhiều. Còn người bên nước Sở thì vừa lười vừa làm biếng, chẳng chịu chăm sóc tưới bón nên dưa xấu, quả ít. Quan huyện sở tại bên nước Sở thấy vậy thì tức giận lắm. Những người trồng dưa bên Sở thấy vậy cũng đem lòng ghen ghét, nên cứ tối tối, lẻn sang nhổ cây, bứt lá làm cho dưa bên nước Lương đang tốt tươi bỗng trở nên héo hon, xơ xác.
Những người trồng dưa bên nước Lương rình biết, bèn trình báo lên quan sở tại của mình và cũng định rắp tâm sang phá dưa bên nước Sở để trả thù. Nhưng quan sở tại của nước Lương là người thâm trầm, mưu cao liền can ngăn và bảo:
– Nếu lấy ác mà xử ác thì chỉ gây thù chuốc oán, gieo mầm loạn lạc binh đao. Thay vì trả thù, ta cứ lẳng lặng sang tưới dưa cho họ, đó mới là thiện chí.
Nói là làm. Một thời gian sau, dưa bên nước Sở xanh tốt, quả nhiều. Dân nước Sở lấy làm lạ, cũng để ý rình rập, sau mới hay người bên nước Lương sang tưới dưa cho mình. Quan bản địa bên nước Sở thấy vậy lấy làm hổ thẹn. Sự việc đến tai vua nước Sở. Vua nước Sở cũng lấy làm xấu hổ và nghĩ rằng, ngoài cái tội phá dưa của người ta ra, còn thêm một tội khác nữa là gây ra thù oán. Vua nước Sở bèn xuống chiếu trách cứ quan huyện, khuyến cáo dân chúng nước Sở, rồi viết thư sai sứ giả sang nước Lương xin lỗi, tỏ lòng hiếu hòa bang giao.
Thế là hai nước giữ được sự yên bình lâu dài và dân cư thái bình.
Giá mà mỗi người chúng ta cũng biết sống như quan huyện nước Lương thì cuộc sống của mọi người sẽ đẹp biết bao!
Suy niệm 3: TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Lịch sử cứu độ là lịch sử của Thiên Chúa trung thành với tình yêu cứu độ, còn loài người thì bất trung và từ chối tình yêu ấy. Tuy nhiên, kế hoạch cứu độ của tình yêu Thiên Chúa vẫn thành công.
Cầu nguyện: Lạy Cha, Chúa Giêsu cho con hiểu được tình yêu vô bờ của Cha, hiểu được ý nghĩa của lịch sử cứu độ Cha thực hiện cho loài người chúng con. Tình yêu Cha quá cao cả, Cha không ngừng sai các sứ giả đến mời gọi chúng con bước theo chân lý của Cha. Cha không ngừng đi tìm chúng con trở về, nhưng chúng con lại từ chối và quay lưng lại với Cha. Tuy nhiên dù chúng con phản bội, bất trung, Cha vẫn một lòng trung thành yêu thương chúng con và còn yêu thương hơn nữa. Tình yêu Cha vẫn tuôn trào, vẫn luôn đầy sáng kiến để thực hiện những kỳ công, để rồi cuối cùng ban tặng Con Một Cha cho chúng con. Cha chạy đua với tội lỗi chúng con. Tội lỗi càng dâng cao, tình yêu và ân sủng Cha lại càng chan chứa.
Lạy Cha, con biết nói sao cho hết tâm tình tạ ơn. Con biết Cha không cần con phải làm điều gì vĩ đại cho bằng biết mở lòng đón nhận tình yêu của Cha. Xin đừng để con cứng lòng và bịt tai nhắm mắt mãi. Chắc chắn trong đời có nhiều lúc con đã từ chối và phản bội Cha, nhiều lúc đã giết Con Cha. Nhưng con biết Cha vẫn một lòng thương yêu con. Xin Cha giúp con trở về với tình yêu Cha, không ngừng hoán cải để nối lại dây tình yêu đã bị con cắt đứt. Chẳng những Cha không bao giờ thất vọng về con mà lại còn tìm muôn vàn phương thế để lay động trái tim con. Xin Cha giúp con vững lòng trông cậy, không bao giờ thất vọng, cho con biết chỗi dậy mỗi ngày, biết làm lại từ đầu. Xin Cha cho con dù có bao lần vấp ngã, nhưng suốt cuộc đời vẫn trung thành với tình yêu ban đầu. Con tin tình yêu Cha sẽ chiến thắng trái tim con. Amen.
Ghi nhớ: “Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em, chúng ta hãy giết nó”.
Suy niệm 4: Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A- Phân tích (Hạt giống…)
Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ.
1. Bài đọc Cựu Ước kể chuyện tổ phụ Giuse bị các anh ganh ghét nên bán đi cho các lái buôn. Giuse trở thành nô lệ (Phần sau của chuyện Giuse kể tiếp là sau này Giuse lên chức tể tướng nước Ai cập và đã cứu cả gia đình mình khỏi nạn đói).
2. Qua dụ ngôn những thợ vườn nho ác ôn, Chúa Giêsu nói Ngài chính là Giuse mới, bị dân mình giết chết, nhưng lại là Đấng cứu rỗi muôn dân. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc”.
B- Suy gẫm (… nẩy mầm)
1. Lòng ganh ghét đã khiến các con Giacóp coi đứa em ruột của mình là kẻ thù. Lòng ganh ghét cũng khiến các thượng tế và kỳ lão Do Thái giết chết Đấng Messia mà toàn dân mong đợi bấy lâu nay. Dù chiếc xe đã ngã, nhưng vết xe cũ vẫn luôn có người theo. Tôi có như vậy không ?
2. Giuse đã lấy ơn để trả oán. Chúa Giêsu đã lấy cái chết để cứu chuộc cả những người hành hạ Ngài. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc”. Xin Chúa giúp ta cách “báo thù” tuyệt vời ấy.
3. Một hoàng đế Trung Hoa muốn chiếm đất của kẻ thù và tiêu diệt họ. Nhưng ít lâu sau, thần dân thấy nhà vua đi lại, ăn uống với kẻ thù trước kia.
– Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù ?
– Đúng, ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta.
4. Cái nhìn của Chúa khác cái nhìn của loài người. Khả năng của Chúa cũng tuyệt vời hơn khả năng loài người. Viên đá mà “những người thợ xây” – tức loài người chúng ta – coi là đồ bỏ đi, thì Thiên Chúa có thể biến thành tảng đá góc tường. Thí dụ viên đá Phêrô đã 3 lấn chối Chúa, viên đá Phaolô và biến cố trên đường Đamát, viên đá Augustinô… Nhiều anh chị em tôi cũng có thể là những viên đá như thế, vậy tôi hãy khoan dung… Ngay cả tôi cũng có thể là như thế, nên tôi hãy trông cậy.
Suy niệm 5: Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Dụ ngôn những tá điền sát nhân (Mt 21,33-43.45-46)
- Qua dụ ngôn này ta thấy Thiên Chúa đã yêu thương tuyển chọn và chăm sóc dân Người. Nhưng những con người bất tín, điển hình là các nhà lãnh đạo Do thái đã đưa dân vào con đường bất nghĩa. Người đã sai các tiên tri đến với họ, và đã bị đối xử tàn tệ. Cuối cùng Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Người đến. Ngài đã bị họ sỉ nhục, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Nhưng chính nhờ Ngài, ơn cứu độ đã được thực hiện cho muôn người. Qua cái chết của Đức Giêsu, một dân tộc mới được hình thành. Giáo hội được khai sinh.
- Ý nghĩa của dụ ngôn: chủ vườn nho là Thiên Chúa, vườn nho là dân Do thái, những tá điền làm vườn nho là các tư tế, biệt phái và luật sĩ, các đầy tớ được sai đến bị bắt, bị đánh đập và bị giết chết là các tiên tri, hoa lợi là kết quả của những việc lành, con trai duy nhất của ông chủ là Đức Giêsu, bị lôi ra khỏi vườn tức là bị đem ra khỏi thành Giêrusalem mà giết. Cuối cùng, ông chủ sẽ tru diệt bọn hung ác đó, tức là Thiên Chúa sẽ trừng phạt dân Do thái.
- Dụ ngôn này có tính cách lịch sử: nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do thái, và thái độ của dân Do thái đối với những tiên tri Chúa sai đến với họ, thái độ của họ đối với chính Chúa.
Dụ ngôn cũng mang tính cách tiên tri: nơi con người thời đại đang và sẽ đến đối xử với Thiên Chúa và những tá điền vườn nho là hình ảnh các giới lãnh đạo Do thái nhưng cũng chỉ trực diện mỗi chúng ta ngày hôm nay, những người trong giao ước mới, được mời gọi đi làm vườn nho. Chúng ta là những tá điền được Chúa trao phó trách nhiệm trông coi vườn nho và làm phát sinh hoa lợi. Những gì ta đang có là hoa lợi từ vườn nho.
- Mình muốn tước lấy hoa trái của Thiên Chúa, muốn mình định đoạt tất cả, loại Thiên Chúa trong cuộc đời mình, chính là hình ảnh của những tá điền bất lương của ngày hôm nay, con người vẫn đang đi vào vết xe đổ của lịch sử: Khi chúng ta chọn lựa cho mình một cách sống tự mình là chủ định đoạt “vườn nho” mà không cần biết Đấng làm chủ vườn nho, chúng ta muốn tước đoạt của “thừa tự” của Đấng làm Con Thiên Chúa. Chúng ta đang phác hoạ lại hình ảnh Nguyên tổ trong Vườn Địa đàng xưa: muốn lấy cái “biết” của Thiên Chúa qua hành động hái và ăn trái “hiểu biết” theo ý đồ của Satan, để có vinh quang bằng Đấng Tạo Hoá. Nhưng, sự “biết” không thấy, lại bị tước đoạt vườn Địa đàng được trao phó. Những tá điền vườn nho cũng vậy, khi giết con thừa tự, vườn nho không những không được hưởng, mà lại còn bị chủ vườn nho lấy lại giao cho tá điền khác (Vinh Sơn, Suối nguồn tình yêu, I, tr 198).
- Ngày nay, chúng ta cũng được coi là vườn nho của Thiên Chúa. Tất cả những gì Chúa ân cần săn sóc ban cho đều là hồng ân của Chúa. Chúng ta được tự do hành động, sắp xếp công việc theo ý ta, nhưng ta phải chịu trách nhiệm về những việc làm ấy. Bổn phận của chúng ta là phải cố gắng làm việc cho tốt đẹp để đáp lại tình thương của Chúa đối với chúng ta.
Sách có chữ rằng: “Tiền xa ký phúc, hậu xa khả giới”: xe trước đổ, xe sau phải coi chừng. Dân Do thái ngày xưa đã bất trung nên đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Ngày nay chúng ta là dân Do thái mới được Thiên Chúa săn sóc giữ gìn, chúng ta phải tránh xa vết xe cũ kẻo phải hư đi, nhưng phải trung thành với hồng ân Chúa ban, bằng cách làm cho ơn Chúa được sinh hoa kết quả dồi dào trong đời sống; đồng thời cũng phải biết chia sẻ cho người khác nữa.
- Truyện: Không biết chia sẻ của Chúa ban
Một người nghèo nọ được thần tài gõ cửa, nên không mấy chốc căn nhà của anh bỗng rộn lên tiếng cười của vợ con, họ hàng và láng giềng. Một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn đó là điều mà con người may mắn này đã cảm nhận được.
Tuy nhiên, may mắn nào cũng kéo theo những đòi hỏi mà đòi hỏi thách thức nhất của người nghèo bỗng trở thành giàu có là: hãy chia sẻ với người khác. Không mấy chốc, bà con họ hàng từ các nơi đổ xô về căn nhà nghèo nàn của anh để xin giúp đỡ, trước là nhận họ sau là nhận hàng, đó là thói thường của người đời.
Kẻ trúng số hiểu được các tâm lý thông thường ấy, lúc đầu được thúc đẩy bởi lòng quảng đại, ông không ngần ngại chia sớt cho mọi người. Nhưng dần dà con số người đến xin giúp đỡ ngày càng gia tăng cho đến một lúc cuộc sống riêng tư và êm ấm của gia đình hầu như bị xáo trộn triền miên. Người đàn ông không còn đủ kiên nhẫn nữa.
Một hôm, ông đề nghị với vợ:
– Hay là ta dọn đi một nơi khác.
Người vợ lắc đầu bảo:
– Mình có đi đâu thì thiên hạ cũng tìm tới.
Nhưng người chồng giải thích:
Mình sẽ đi đến một chỗ không ai biết, mình sẽ đổi tên đổi họ, cũng không cho ai biết mình đi đâu, và sẽ cố gắng sống một cách đơn giản, để không ai để ý đến mình nữa, ngay cả mấy đứa nhỏ cũng không cho biết mình đã trúng số.
Người vợ thắc mắc:
– Còn tiền bạc thì mình để đâu ?
Chồng trả lời dứt khoát:
Mình sẽ đem chôn giấu, mình sẽ sống như thể không hề trung số, chỉ đem ra dùng khi nào cần thiết mà thôi.
Thế là cả gia đình dọn đến một nơi khác như dự kiến: họ lén lút ra đi không ai biết, tiền bạc đem chôn cất, con cái còn quá nhỏ nên không biết việc gì đã xảy ra, họ sống nghèo nàn trong một khu ổ chuột. Ngày qua ngày, chính họ cũng quên rằng mình đã có lần trúng số, và khi họ chết thì tất cả mọi tài sản đều mất hết. Họ quên cả việc viết chúc thư cho con cái để trao lại tài sản cho chúng.
Suy Niêm 6: Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Ngày 18 tháng 3
THÁNH CYRILLÔ THÀNH GIÊRUSALEM,
GIÁM MỤC VÀ TIẾN SĨ HỘI THÁNH
(315-386)
I. VÀI DÒNG TIỂU SỬ
Thánh Cyrillô thành Giêrusalem là một trong số 35 vị thánh đã được Giáo Hội phong lên hàm Tiến sĩ vì sự đóng góp quan trọng của ngài trong việc bảo vệ đức tin của Hội thánh.
Tìm hiểu về thánh Cyrillô thành Giêrusalem chúng ta thấy cuộc đời của ngài đan xen giữa hai chiều kích:
- nhiệt thành chu toàn công tác mục vụ;
- tận tụy đến quên mình trong những cuộc tranh luận, chống lại những gì đã gây phiền nhiễu cho đời sống đức tin vào thời đó ở Giáo hội Đông phương.
Cyrillô sinh tại (hoặc gần) Giêrusalem vào năm 315, được hưởng thụ một nền giáo dục văn chương trổi vượt. Nền giáo dục ấy đã xây dựng nền tảng văn hóa Kitô giáo nơi ngài, mà trọng tâm là nghiên cứu Kinh Thánh. Ngài được đức giám mục Maximus truyền chức linh mục.
Khi đức giám mục Maximus qua đời (hoặc bị cách chức) vào năm 348, Cyrillô đã được tấn phong giám mục bởi đức tổng giám mục Acacius, lúc đó, là người đang có ảnh hưởng lớn trên miền Caesarea, ở Palestine. Đức tổng giám mục này là một người theo phái Ariô, vốn có cảm tưởng rằng Cyrillô là một trợ tá đứng về phe mình. Vì thế, người ta đã từng hoài nghi về việc Cyrillô được bổ nhiệm làm giám mục, bởi nhượng bộ và thỏa hiệp với phái Ariô.
Trên thực tế, ngay từ đầu Cyrillô đã tỏ ra đối lập với đức tổng Acacius, không chỉ về phạm vi đạo lý mà còn cả thẩm quyền nữa, bởi ngài đã tuyên bố tòa giám mục của minh độc lập với tòa giám mục Caesarea của Acacius.
Cyrillô bị lưu đày ba lần trong khoảng hai mươi năm: cuộc lưu đày đầu tiên diễn ra vào năm 357, sau khi bị Công nghị Giêrusalem bãi nhiệm; cuộc lưu đày thứ hai diễn ra vào năm 360, bởi âm mưu của Acacius; cuộc lưu đày cuối cùng vào năm 367 là dài nhất, khoảng mười một năm, bởi hoàng đế Valens thuộc phe Ariô.
Đúng vào năm 378, sau khi hoàng đế băng hà, Cyrillô giành lại quyền sở hữu tòa giám mục của ngài, rồi xây dựng hiệp nhất và hòa bình cho các Kitô hữu.
Có một số nguồn tài liệu thời đó hoài nghi về tính chính thống của Cyrillô, nhưng cũng có một số nguồn tài liệu cổ khác bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ thiện ý của thánh nhân. Trong số những nguồn tài liệu ủng hộ đó, uy tín nhất là “Thư gửi Công nghị” năm 382 (tức là một năm sau Công đồng Constantinople) mà trong đó Cyrillô đã đóng góp một phần quan trọng.
Trong lá thư được gửi đến giám mục Rôma, các đức giám mục Đông phương công nhận tính chính thống tuyệt đối, tính hợp pháp của việc truyền chức giám mục cho Cyrillô, đồng thời khẳng định thánh nhân có tài xuất sắc trong những công việc mục vụ và tận tụy cho đến khi qua đời vào năm 387.
I. BÀI HỌC.
Thánh Cyrillô đã để lại cho Giáo Hội nhiều tác phẩm rất quan trọng nhất là vào lúc đó. Tất cả các tác phẩm này đều đặt nền tảng trên Lời Chúa.
* Trước hết đó là hai mươi bốn bài giáo lý nổi tiếng vẫn còn được lưu giữ lại. Đây là những bài giáo lý thánh nhân giảng dạy với vai trò là giám mục vào khoảng năm 350.
Những bài giáo lý này đặt nền tảng cho tiến trình dẫn các tín hữu bước vào đời sống cầu nguyện, từ đó góp phần thúc đẩy tiến trình khai tâm Kitô giáo, tức là ba bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, và Thánh Thể.
* Tiếp đến là những bài giáo huấn chống lại dân ngoại, chống lại những Kitô hữu gốc Do Thái và những người theo phái Manikê. Những bài giáo lý này đánh dấu một giai đoạn quan trọng, xét trong một bối cảnh rộng lớn hơn là toàn bộ đời sống đức tin của cộng đoàn Giáo hội – đặc biệt, khía cạnh Phụng vụ, vì từ cung lòng Mẹ Hội Thánh, các Kitô hữu tương lai đã được cưu mang, cùng đồng hành có lời cầu nguyện và chứng tá của vô số anh chị em tín hữu.
Nhìn chung, các bài giảng của thánh Cyrillô đã góp phần xây dựng một hệ thống giáo lý về hồng ân tái sinh nhờ bí tích Rửa Tội.
Thánh nhân chia sẻ với các tân tòng: “Anh chị em đã được mắc vào những chiếc lưới của Giáo hội (x. Mt 13,47). Vì vậy, hãy giữ lấy sự sống, đừng bao giờ đánh mất, vì chính Đức Giêsu, Đấng đã câu được anh chị em, không phải để giết hại, nhưng là để Phục Sinh tất cả sau khi chết. Thật vậy, anh chị em phải chết đi và trỗi dậy một lần nữa… (x. Rm 6,11.14). Chết đi cho tội lỗi của mình và quyết tâm sống công chính kể từ ngày hôm nay”.
* Sau cùng, là những bài giáo lý “Dẫn Vào Mầu Nhiệm” đánh dấu đỉnh cao những hướng dẫn của thánh Cyrillô, không chỉ nhắm tới các dự tòng chuẩn bị lãnh nhận bí tích, nhưng còn chú ý đến các tân tòng vừa mới thụ lãnh Phép Rửa, trong suốt tuần lễ Phục Sinh. Ngài hướng dẫn họ khám phá các mầu nhiệm cao quý được ẩn giấu trong những nghi thức cử hành trong đêm Canh thức Vượt qua. Nhờ hiệu lực của bí tích vừa thụ lãnh, anh chị em tân tòng được ánh sáng đức tin soi dẫn, có thể hiểu rõ hơn các mầu nhiệm của đạo thánh khi cử hành các nghi thức.
Đặc biệt đối với các tân tòng gốc Hy Lạp, thánh Cyrillô vận dụng phương thức trực quan, vốn quen thuộc trong nếp nghĩ và văn hóa của họ. Chính đoạn văn dẫn người ta đi từ nghi thức bước vào mầu nhiệm khiến cho người tân tòng hết sức kinh ngạc đồng thời cảm nghiệm được ý nghĩa của đêm Phục Sinh.
Vâng cuộc đời của ngài là như thế: hết lòng trong công tác mục vụ và can đảm trong công việc bảo vệ Đức tin.
Xin Chúa cho chúng ta cũng biết noi gương thánh Cyrillô hết lòng yêu mến Hội Thánh và đặc biệt biết vận dụng Lời Chúa vào cuộc sống để làm cho mọi người cũng biết yêu mến Chúa như mình.
Trong lịch sử thuật lại các cuộc chấp nhận niềm tin Kitô giáo, có ghi lại câu chuyện sau đây:
Tại một tỉnh thuộc miền Trung Ấn Độ, một tín hữu Kitô có tên là Sacdu-Sundasi tự nguyện tham gia công tác truyền giáo bằng cách phổ biến sách Phúc âm. Ngày kia, trên một chuyến xe lửa, anh can đảm lấy ra một số sách Phúc âm của thánh Gioan đựng trong cặp và trao cho hành khách không phải là Kitô hữu. Thay vì chỉ từ chối không nhận, một hành khách lại giận dữ chộp lấy một quyển Phúc Âm xé nát và quăng những mảnh giấy vụn qua cửa sổ. Thiện chí truyền giáo của Sacdu tưởng chừng như tan biến theo gió. Nhưng cũng vào lúc ấy, có một người tình cờ đi dọc theo đường ray, anh ta tò mò cúi nhặt mảnh giấy bị gió cuốn trước mặt, và anh đọc được hàng chữ “Bánh Hằng Sống” được in bằng tiếng địa phương. Tuy không hiểu rõ ràng chữ trên có ý nghĩa gì nhưng anh cứ giữ lấy mảnh giấy để dò hỏi các bạn quen biết. Một trong bọn họ bảo: Đây là mảnh giấy trong sách đạo Kitô, anh không nên đọc nó nếu không muốn bị ô uế.
Suy nghĩ trong khoảnh khắc, người đã nhặt được mảnh giấy, nói:
– Tôi không sợ bị ô uế, ngược lại tôi muốn đọc trọn quyển sách mang dòng chữ tuyệt vời này.
Sau đó, anh tìm mua một quyển Tân ước và được chỉ chỗ của câu trong mảnh giấy lời Đức Giêsu tuyên bố: “Ta là Bánh Hằng Sống”. Anh say mê đọc và thấy con tim được chiếu sáng. Rồi sau khi lãnh nhận phép thanh tẩy, chính anh đã trở nên một giáo lý viên.
Người đã ghi lại câu chuyện trên ghi chú: qua Chúa Thánh Thần, mảnh giấy nhỏ đã thực sự trở nên Bánh Hằng Sống cho anh.