“Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối,
nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12)
Suy Niệm Lời Chúa
Thứ Hai Tuần 5 Mùa Chay
Ngày 04/04/2022
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gioan:
Suy niệm 2: Lm. Giuse Đinh Tất Quý
1. Rõ ràng là có một sự khác biệt rất lớn giữa cách hành xử của những người Pharisêu và của Chúa Giêsu. Nhóm Pharisêu thì muốn kết tội, còn Chúa Giêsu thì muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu chuyện chúng ta thấy, nhóm Pharisêu chỉ muốn ném đá người đàn bà này cho chết, và họ còn cảm thấy rất thích thú khi được làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi quyền lực được sử dụng để kết án. Còn Chúa Giêsu, thì Ngài không muốn làm như vậy. Ngài không cảm thấy vui khi quyền hành được dùng để kết tội. Ngài muốn quyền hành là để tha thứ.
Khi Chúa Giêsu nói với người đàn bà xấu nết: “Hãy đi, đừng phạm tội nữa!” (Ga 8,11) thì ít nhất Chúa đã muốn cho mọi người thấy: Chúa tin vào con người. Phương pháp của Chúa không phải là vạch trần những điều xấu xa và làm cho người có tội phải cúi sát đầu của mình xuống đất, chấp nhận mình là tội nhân khốn nạn, nhưng là ban cho tội nhân một cơ hội để họ tự khám phá ra một điều mà trước đó họ chưa hề nghĩ tới, đó là họ có một khả năng tiềm ẩn có thể giúp họ làm lại cuộc đời và trở thành những thánh nhân. Chúng ta còn nhớ thật rõ câu chuyện của Lêvi-Matthêô, của Maria Mađalena, của Augustinô v.v.
Victor Grignard vì được bố mẹ nuông chiều, không thích học, chỉ biết ham chơi. Lớn lên, Grignard trở thành một anh chàng tuấn tú, cuộc sống xa hoa, đi khắp nơi tán tỉnh các cô gái, trở thành kẻ chơi bời trác táng ai ai cũng biết.
Trong một buổi dạ hội, Grignard nhìn thấy một cô gái xinh đẹp, đoan trang. Anh hí hửng đi tới trước mặt cô gái và mời cô khiêu vũ. Thật không ngờ, cô gái ấy lại trách mắng anh: “Tôi không bao giờ khiêu vũ với những kẻ chơi bời trác táng, vô công rồi nghề, hãy tránh xa tôi ra”. Câu nói ấy chẳng khác nào gáo nước lạnh dội vào đầu. Anh cảm thấy vô cùng xấu hổ. Một người bạn thân đã bước lại, nói với Grignard: “Cô gái này chính là nữ bá tước đến từ Paris”. Grignard xin lỗi nữ bá tước.
Thế là Grignard quyết định bỏ nhà ra đi, thay đổi môi trường sống.
Grignard đến Lyon, dùng thời gian hai năm để học lại những bài học mà mình bỏ lỡ, sau đó theo học trường đại học Lyon. Dưới sự dẫn dắt của giáo sư, Grignard bắt đầu học tập và nghiên cứu.
Năm 1901, Grignard phát hiện thuốc thử Grignard. Năm 1912, ông được trao giải Nobel Hóa học. Về sau Grignard nhận được một bức thư. Bức thư chỉ có một câu: “Tôi mãi mãi yêu kính ngài”. Người viết bức thư ấy chính là nữ bá tước năm xưa.
2. Rồi nếu đọc chuyện trên dưới góc cạnh tâm lý, chúng ta còn thấy thêm rằng, xét đoán người khác là một cám dỗ thường xuyên và kết án người khác nhiều khi cũng là một thứ khoái lạc. Bởi đó, có rất nhiều người thích xét đoán và kết án người khác.
Chúa Giêsu thì không như thế. Có lần Chúa đã dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán lại như vậy” (Mt 7,1-2). Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6,37).
Chúng ta hãy nghe lại Lời Chúa nói với người đàn bà có tội “Tôi không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Vào thời Vua Henry VII của Anh, ở Luân Đôn nạn trộm cắp thật nhiều. Quan Chưởng ấn Thomas More nhận thấy vị thẩm phán già hay khiển trách những người đến khiếu nại vì bị móc túi ngoài đường, ông quan tòa già quả quyết rằng nếu mấy nạn nhân đó cẩn thận giữ túi tiền của mình thì làm sao mà mất được.
Nhân một cuộc họp các thẩm phán, Thomas More bí mật cho gọi một tên móc túi chuyên nghiệp đang ở tù và dặn rằng:
– Ta sẽ thưởng cho nhà ngươi, nếu ngươi móc được túi tiền của ông quan tòa già kia.
Tên móc túi xin phép được tới nói chuyện với vị quan tòa già và đưa tay khéo léo móc được túi tiền của ông ta rồi hiên ngang về chỗ ngồi .
Thomas More bấy giờ mới lên tiếng xin các vị thẩm phán làm phúc bố thí cho một người nghèo ở đó. Vị nào cũng rờ túi tiền của mình. Vị quan tòa già kia giật mình vì không thấy túi tiền mình đâu nên la lớn:
– Bớ ăn cắp! Có tên nào ăn cắp túi tiền của tôi rồi!
Thomas nói:
– Sao ? Ông nói chúng tôi ở đây đã ăn cắp túi tiền của ông sao ?
Ông quan tòa mặt đỏ bừng vì giận. Bấy giờ Thomas More mới gọi tên lưu manh kia và bảo trả lại túi tiền cho đương sự. Thomas nói với vị thẩm phán già:
– Tôi khuyên ông hãy bớt nghiêm khắc với những người đã bị móc túi ngoài đường phố, vì chính ông cũng đã để cho người ta cuỗm mất túi tiền ngay giữa đại hội như thế!
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa có quyền xét đoán; xin Chúa hãy đoán xét con đời này, để tha xét đoán con trong ngày công phán. Amen.
Suy niệm 3: TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Trước mặt Thiên Chúa, mọi người chúng ta đều là tội nhân. Nhưng Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ tất cả, nếu chúng ta thật lòng thống hối ăn năn.
Cầu nguyện: Đứng trước người đàn bà ngoại tình và đối diện với chính Chúa, người ta đã rút lui, từ người nhiều tuổi nhất. Lạy Chúa, tuổi đời càng nhiều, tội lỗi con càng chồng chất. Nhưng tội lỗi càng nhiều, con càng được Chúa thương hơn. Lòng nhân hậu Chúa luôn mở rộng đón nhận con trở về. Chúa sẽ nhận tất cả con người con, kể cả tội lỗi, để từ đó, Chúa sẽ thánh hóa, dẫn con đi vào con đường thánh thiện.
Nguyện xin Chúa giúp con sáng suốt nhận ra tấm lòng bao dung quảng đại của Chúa. Chúa yêu thương tất cả mọi nguời, đặc biệt các tội nhân. Hơn ai hết, người đàn bà ngoại tình hiểu được sức mạnh giải phóng của lời tha thứ. Chắc chắn chị trở về và nỗ lực sống tốt đẹp hơn, vì Chúa đã khích lệ chị: “Ta không kết án con. Hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Lạy Chúa, lời tha thứ của Chúa luôn kèm theo một đòi hỏi: đừng phạm tội nữa. Vâng, con hiểu điều đó. Lời mời gọi hoán cải vẫn còn vang dội vào tai con mỗi ngày, bởi vì việc hoán cải không bao giờ có kết thúc, và đối với Chúa, thái độ hoán cải không bao giờ là muộn màng. Xin Chúa giúp con biết cương quyết từ bỏ tật xấu và thực hiện việc lành. Đặc biệt trong thời gian thuận lợi của Mùa Chay này, xin Chúa giúp con chân thành duyệt xét lại cuộc đời và canh tân đời sống. Xin Chúa giúp con chỗi dậy, thật lòng sám hối đổi đời và trung thành với điều dốc quyết. Amen.
Ghi nhớ: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”.
Suy niệm 4: Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A- Phân tích (hạt giống…)
1. Bài đọc 1: thuật lại chuyện bà Susanna bị hai kỳ lão vu khống là phạm tội ngoại tình nên kết án xử tử. May có cậu bé Đaniel khôn ngoan cứu thoát bà.
2. Bài Phúc Âm: cũng tường thuật chuyện một phụ nữ sắp bị kết án tử. So sánh hai chuyện ta thấy được vài điểm đáng chú ý sau:
– Bà Susanna vô tội, còn người phụ nữ này phạm tội bị bắt quả tang.
– Đaniel cứu người vô tội, còn Chúa Giêsu cứu người có tội.
– Những người muốn xử tử hai người này đều là những bậc “đạo đức” mẫu mực.
– Câu chuyện trong bài Phúc Âm này kết thúc bằng câu nói rất hiền từ của Chúa Giêsu “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
B- Suy gẫm (..nẩy mầm)
1. Những bậc “đạo đức” trong hai câu chuyện trên đều muốn giết người. Những người trong bài đọc Cựu Ước muốn giết người vì lòng họ gian ác rõ ràng: chính họ là kẻ có tội nhưng họ lên án kẻ khác để che dấu tội lỗi của mình. Còn những người trong bài trích Phúc Âm này muốn giết người để tỏ ra mình nghiêm chỉnh tuân thủ lề luật. Những người này còn lợi dụng mạng sống của nạn nhân để gài bẫy Chúa Giêsu. Thì ra, người ta có thể tô vẽ bộ mặt đạo đức của mình bằng chính những mưu toan tội lỗi.
2. Chúa Giêsu buồn vì những người đạo đức giả dối đó. Ngài nhắc họ “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Tôi có đang hay sắp ném đá ai không ? Hãy trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu.
3. “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Chúa không kết án ta, ta hãy cảm mến lòng khoan dung của Ngài. Nhưng không nên lơi dụng lòng khoan dung ấy “Từ nay đừng phạm tội nữa”. Cảm mến tình Chúa thì đừng làm Chúa buồn nữa.
4. Chú giải đoạn trích Phúc Âm này, một nhà nghiên cứu Thánh Kinh viết: “Luôn có rủi ro khi ta tha thứ”, nghĩa là nhiều khi người được tha lại đi phạm tội nữa. Chính vì muốn bảo đảm, tránh rủi ro đó mà nhiều người không tha thứ. Nhưng Chúa Giêsu dám chấp nhận rủi ro. Phần tôi thì sao ?
5. Đọc chuyện này dưới góc cạnh tâm lý, ta còn thấy thêm rằng xét đoán người khác là một cám dỗ thường xuyên và kết án người khác nhiều khi cũng là một thứ khoái lạc. Bởi đó nhiều người rất thích xét đoán và kết án.
6. Thánh vịnh 32 có thể giúp chúng ta hiểu được tâm trạng của người phụ nữ ngoại tình, và của chính chúng ta: “Phúc cho ai có tội mà được tha, có lỗi lầm mà được khỏa lấp” (Tv 32,1).
7. Một Mục Sư giảng về chiếc thang Giacóp. Cậu con trai ông rất cảm động. Mấy ngày sau, cậu nói với cha là mình vừa mơ về câu chuyện đó.
– Sao, con mơ thấy gì ?
– Con mơ thấy một chiếc thang lên tới tầng mây. Ở dưới chân thang có rất nhiều phấn, và mỗi người phải lấy phấn viết hết tất cả các tội của mình ở trên đó thì mới lên được.
– Hay thật! Rồi con thấy gì nữa ?
– Con thấy con leo lên, nhưng chưa được bao xa thì con thấy có người leo xuống.
– Ai vậy ?
– Ba chứ ai!
– Ba ? Thế ba leo xuống để làm gì ?
– Ba lấy thêm phấn! (Winnder, London)
Suy niệm 5: Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Tình thương tha thứ (Ga 8,1-11)
- Người Do thái có nhiều lễ trong một năm. Lễ Lều Trại có lẽ là cơ hội để người ta lạm dụng, ăn ở phóng túng. Trong suốt tám ngày sống ở lều, ngoài rừng, thuận tiện cho những cuộc gặp gỡ lả lướt. Những cuộc giao du nơi này qua nơi khác vẫn hay có những hội ngộ tình cờ, không hợp với luân thường đạo lý là bao. Chính sau cuộc lễ này mà xảy ra câu chuyện trong bài Tin mừng.
Sau bài giảng trong Đền thờ nhân dịp lễ Lều Trại của người Do thái, Đức Giêsu đi ra nghỉ tại núi Cây Dầu. Bao giờ có dịp về thủ đô, Ngài cũng qua nghỉ đêm tại đó. Tảng sáng hôm sau, Ngài lại vào Đền thờ và toàn dân đến cùng Ngài, nên Ngài ngồi xuống đất mà giảng.
Tình cờ người ta đem đến cùng Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Những người luật sĩ và biệt phái lợi dụng cơ hội này để thử thách Đức Giêsu.
- Hôm nay, các luật sĩ và biệt phái sử dụng “nguyên lý triệt tam” để tung ra một đòn quyết định, đặt Đức Giêsu và một tình thế tiến thoái lưỡng nan, mà nếu Ngài ngả theo phía nào thì họ cũng có cái cớ để tố cáo Ngài.
Họ đưa đến trước mặt Đức Giêsu một người phụ nữ phạm tội ngoại tình, rồi hỏi Ngài sẽ xử lý thế nào khi luật Maisen dạy phải ném đá chết. Cái bẫy của họ gài vào là nếu Đức Giêsu nói không thì họ kết án Chúa lỗi luật Maisen, còn nếu Ngài nói có thì họ sẽ có cớ phản bác trái với luật yêu thương mà Ngài giảng dạy.
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp với họ, nhưng với một lời nói của Ngài đã đặt các luật sĩ và biệt phái vào một sự chất vấn của lương tâm và phơi bày lòng dạ khi đối diện với Đấng thấu suốt mọi sự: “Ai trong các ngươi sạch tội thì hãy lấy đá mà ném trước đi”. Cuối cùng họ lặng lẽ rút êm, bắt đầu từ người lớn tuổi nhất.
- Rõ ràng có một sự khác biệt rất lớn giữa cách hành xử của những người luật sĩ, biệt phái với Đức Giêsu. Nhóm biệt phái thì muốn kết tội, còn Đức Giêsu thì muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu chuyện chúng ta thấy, nhóm biệt phái chỉ muốn ném đá người đàn bà này cho chết, và họ còn cảm thấy rất thích thú khi được làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi quyền lực được sử dụng để kết án. Còn Đức Giêsu, thì Ngài không muốn làm như vậy. Ngài không cảm thấy vui khi quyền lực được dùng để kết tội. Ngài muốn dùng quyền hành để tha thứ.
- Qua sự kiện này, chúng ta thấy có một nghịch lý đáng buồn và cũng đáng trách: một đàng Thiên Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng lại đầy lòng thương xót và khoan dung đối với người tội lỗi… Còn con người thì ai cũng mắc tội không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ lại hay xét đoán, phê bình chỉ trích và lên án người khác nhất là những kẻ tội lỗi. Do đó, nhiều khi đã vô tình xô đẩy thêm kẻ có tội vào vũng lầy không lối thoát.
- Qua câu trả lời của Đức Giêsu: “Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá người phụ nữ này đi”, chúng ta tìm ra được nguyên tắc của Đức Giêsu là chỉ người vô tội mới được đoán xét những lỗi lầm của người khác.
Hôm nay, Chúa dạy chúng ta một bài học là phải dành quyền xét đoán cho Thiên Chúa, vì chỉ ai không có tội mới có quyền xét đoán và lên án, còn chúng ta là những người tội lỗi phải có lòng thương cảm đối với tội nhân.
Còn về phía mình, Chúa nhắc nhở ta phải biết hồi tâm, phải nhận ra mình là kẻ có tội, phải đi xưng tội để làm hoà với Chúa. Khi đã có một tâm tình như vậy, tự nhiên chúng ta không dám xét đoán và lên án ai.
- Truyện: Cần lòng thương xót
Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin hoàng đế Napoléon tha thiết cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý. Nhưng bà mẹ năn nỉ:
– Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.
Hoàng đế Napoléon trả lời:
– Nhưng hắn ta không đáng được xót thương.
Bà mẹ nói:
– Tâu bệ hạ, nếu nó xứng đáng thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.
Hoàng đế Napoléon đáp:
– Thôi được. Ta rủ lòng thương xót nó.
Ngày 04/04:
Thánh I-si-đô-rô, giám mục, tiến sĩ hội thánh
(khoảng 560-636)
1. Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ
Thánh Isidore, quê tại Séville theo truyền khẩu, sinh khoảng năm 560 tại Andalousie (Tây Ban Nha) từ một gia đình gia giáo lành thánh: các anh em là hai giám mục Léandre và Fulgence, còn Florentine là chị gái. Người kế vị anh Léandre trên ngai giám mục thành Sévilla năm 601.
Trong nhiệm kỳ giám mục khá lâu dài, người rao giảng chống lại những kẻ theo bè Ario và những người lạc giáo được gọi là nhóm “vô thủ lĩnh”. Họ không chấp nhận Đức Ki-tô có hai bản tính. Gần Sévilla, ngài thành lập một ngôi trường – sau này rất nổi tiếng – để đào tạo các linh mục và giáo dân; ngài cũng là giảng viên tại chính ngôi trường này. Tại Công đồng Tolède lần thứ IV năm 633, ngài yêu cầu Giáo Hội phải thành lập các trường tương tự: đó là nguồn gốc các trường của Hội thánh và Đan viện, xuất hiện trước khi có các đại học.
Là một nhà văn lớn, một học giả uyên thâm về nền văn học ẩn sĩ Đông Phương và rất sùng mộ Origène, thánh nhân đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm, trong đó: tập Luận đề (Sentences) và ba quyển sách dọn đường cho các “Tổng luận” thời Trung cổ để trau dồi kiến thức lẫn tâm linh cho các linh mục, đan sĩ và giáo dân. Nhưng tuyệt tác phẩm của người vẫn là cuốn sách mang tựa đề tiếng La Tinh Etymologiae (dịch sang pháp ngữ: Étymologies sur l’origine de certaines choses– nguồn gốc các từ đầu ngành,): đó là một loại từ điển bách khoa (hai mươi quyển) bao gồm mỹ thuật, kỹ thuật, luật, y học, các khoa học tự nhiên, tôn giáo…
Là sử gia (Lịch sử dân Goths). là thi sĩ và nhà Phụng Vụ (bộ Sách lễ và kinh Nhật Tụng, được cho là của thánh nhân, là cốt lõi cho Phụng Vụ tương lai mozarabe); ngài còn là luật gia (Regula monachorum), nhà thần học và mục tử, nên ngài truyền bá truyền thống Công giáo và chuyên cần tổ chức Hội thánh. Năm 633, với tư cách là một vị chủ trì Công đồng quốc gia lần thứ IV tại Tolède, ngài ấn định một nền Phụng Vụ thống nhất cho toàn Tây Ban Nha và miền Gaule narbonaise. Người ta cho rằng ngài soạn lời nguyện Adsumus đọc trong mọi Công đồng.
Isidore de Séville chiếm vị trí hàng đầu trong suốt thời Trung cổ; vào thời này, các tác phẩm la-tinh của thánh nhân được nhiều người đọc và sao chép nhiều nhất. Đối với Bède Khả kính (thế kỷ VIII), thánh nhân là tác giả được ưa chuộng nhất sau Thánh Kinh.
Qua đời tại Séville năm 636, sau 25 năm làm giám mục và được tôn kính như một vị hiển thánh trong toàn cõi Phương Tây từ thế kỷ IX; ngài được Đức Giáo Hoàng Innocent XIII tôn phong làm tiến sĩ Hội thánh năm 1722. Thi hài thánh nhân được sùng kính tại Léôn (Tây Ban Nha). Nghệ thuật ảnh tượng thường biểu hiện hình ảnh ngài cầm bút lông, với đàn ong vây quanh hay bên cạnh tổ ong.
2. Thông điệp và tính thời sự
Lời nguyện riêng biểu dương thánh Isidore làm bậc “tôn sư về linh đạo”, gợi lại tước hiệu tiến sĩ Hội thánh của ngài.
a. sau khi là một người học sinh tầm thường, Isidore chuyên cần học tập, cống hiến cả đời mình để nghiên cứu và giảng dạy. Dưới mắt người đương thời, thánh nhân “phản ảnh kiến thức văn hóa La-Hi cổ xưa”. Ngài đóng vai trò quan trọng trong các thế kỷ về sau cho đến thời các nhà kinh viện nổi tiếng.
Nhưng trên hết, Isidore là mục tử hơn là nhà nghiên cứu; kiến thức văn hóa uyên thâm của người chỉ phục vụ con người, Hội thánh và đức tin. Phụng Vụ Thánh lễ trình bày cho chúng ta dụ ngôn các nén bạc (Mt 25, 14-30) để nhấn mạnh tính chuyên cần học hỏi của thánh nhân nhằm phục vụ Hội thánh và anh em hữu hiệu hơn.
b. Bài đọc một trong Thánh lễ (1 Cor 2, 1-10) tập trung vào lẽ khôn ngoan: Đó chính là lẽ khôn ngoan mà chúng ta loan báo… được tiền định cho những ai yêu mến Thiên Chúa.
– Trong Hội thánh Tây Ban Nha, nhiệm kỳ giám mục khá lâu dài của thánh Isidore dường như thể hiện lẽ Khôn Ngoan hằng thích thú “giao lưu với con cái loài người” (lời đáp trong các bài đọc Kinh sách). Với tư cách là nhà văn, nhà thuyết giáo, và giảng dạy, ngài sáng lập các học viện để giáo huấn và đào tạo giới trẻ, thánh nhân đã định hướng mọi việc nhằm đạt được lẽ khôn ngoan đích thực. Ngài thường nhắc nhở: “Hãy yêu mến khôn ngoan, con sẽ được khôn ngoan tán dương ca tụng, nếu con cùng khôn ngoan gắn bó, khôn ngoan sẽ đem vinh dự lại cho con” Nhưng làm sao đạt được lẽ khôn ngoan ? Bài đọc – Kinh sách trích dẫn, một đoạn trong các luận đề của thánh Isidore: “Mọi sự tiến bộ điều do đọc Sách Thánh và suy niệm … Không ai có thể biết được ý nghĩa Sách Thánh nếu không làm quen nhờ năng đọc”.
– Lời cầu nguyện chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống Kitô hữu vì nhờ cầu nguyện chúng ta được thanh tẩy; nhờ đọc Sách Thánh, chúng ta được dạy dỗ.Vì thế “nếu làm được cả hai thì tốt, còn nếu không, thì cầu nguyện tốt hơn là đọc Sách Thánh. Ai muốn được luôn ở với Thiên Chúa phải năng cầu nguyện và năng đọc Sách Thánh nữa, bởi lẽ khi chúng ta cầu nguyện là chính chúng ta nói với Thiên Chúa, còn khi chúng ta đọc Sách Thánh thì Thiên Chúa nói với chúng ta” (các Bài đọc – Kinh sách).
———————————————–