“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn lòng chúng thì lại xa Ta”. (Mc 7,5)
Thứ Ba tuần 5 Thường niên
08/02/2022
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Máccô: Mc 7, 1-13
1 Có những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. 2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa.
3 Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; 4 thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.
5 Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa ?”
6 Người trả lời họ: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng:
Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
7 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.
8 Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” 9 Người còn nói: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông.
10 Quả thế, ông Mô-sê đã dạy rằng: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! 11 Còn các ông, các ông lại bảo: “Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là “co-ban” nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa” rồi, 12 và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa.
13 Thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!”
Suy niệm 1: Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Trong Bài Tin Mừng hôm nay có năm từ truyền thống (cc. 3, 5, 8, 9, 13).
Đó là truyền thống của tiền nhân, truyền thống của người phàm,
truyền thống mà các ông Pharisêu nắm giữ và muốn người khác phải theo.
Song song với truyền thống này là điều răn của Thiên Chúa (cc. 8, 9)
Đức Giêsu tố cáo người Pharisêu đã gạt bỏ, đã coi thường điều răn này
chỉ vì muốn khư khư giữ lấy truyền thống của họ (cc 8, 9, 13).
Đây là một điều đáng tiếc,
vì mục tiêu của người Pharisêu không phải là hủy bỏ lời của Thiên Chúa (c. 13).
Trái lại, họ muốn dân Do Thái sống nghiêm túc hơn ơn gọi của mình,
sống như một dân tộc thánh thiện giữa một xã hội vàng thau thời Đức Giêsu.
Chính vì thế họ chẳng những muốn tuân giữ điều được viết trong Luật Môsê
mà còn muốn sống theo những truyền thống
dựa trên luật truyền khẩu được ban cho Môsê nữa.
Họ đòi cả dân chúng cũng phải sống theo các luật về thanh sạch của các tư tế.
Bởi vậy, họ than phiền chuyện vài môn đệ của Đức Giêsu
đã không rửa tay trước khi ăn.
Thật ra chẳng phải người Do Thái nào cũng giữ luật rửa tay trước khi ăn.
Các sách Cựu Ước cũng không hề đòi hỏi chuyện này (x. Lêvi 11-15).
Đáng tiếc là khi tập trung vào chuyện sạch sẽ bên ngoài,
người Pharisêu có nguy cơ bỏ rơi hay lơ là chuyện trong sạch nơi trái tim.
Đây mới là điều quan trọng mà Đức Giêsu muốn nhấn mạnh.
Theo truyền thống hội đường Do Thái, có cả thảy 613 điều răn,
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Cả một rừng điều răn này chi phối toàn bộ đời sống của người Do Thái giáo.
Người Pharisêu cho rằng sự thánh thiện nằm ở chỗ chu toàn hết mọi luật này.
Còn Đức Giêsu coi sự thánh thiện nằm ở sâu nơi trái tim thuộc trọn về Chúa.
Ngài trích lời của ngôn sứ Isaia (29, 13):
“Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta.”
Làm thế nào để trái tim của chúng ta gần với Chúa?
Làm thế nào chúng ta khỏi trở thành những kẻ đạo đức giả?
Làm thế nào chúng ta giữ luật Chúa và Giáo Hội với sự mềm mại, tự do, vui tươi?
Ước gì từng hành vi giữ luật của ta được chi phối bởi trái tim đầy yêu mến.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
Suy Niệm 2: Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Thế là các ông lấy truyền thống các ông
đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.” (Mc 7,13)
Có hai điều Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay
1. Về thói giả hình.
Ngày xưa Chúa đã phê phán: “Dân này kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6).
Chẳng cần phải nói nhiều, chúng ta cũng thấy, ngày nay người ta sống giả dối với nhau rất nhiều. Cái gì ngày nay người ta cũng có thể làm giả được. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả. Gần đây chúng ta còn được nghe rất nhiều những thứ giả khác: Bằng giả, chứng chỉ giả, tiến sĩ giả… Những thứ ấy còn đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm quả, hoa, nến, nhang, đèn giả. Mức độ “giả” rất tinh vi nên nhiều khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cả những cái thật, khó mà phân biệt được. Ở đây Chúa Giêsu mới chỉ nói đến “Giả hình”. Ngày nay còn một thứ giả tệ hơn. Đó là “Giả nhân giả nghĩa”.”Giả hình” mà còn đáng trách thì “giả nhân giả nghĩa” còn đáng trách hơn chừng nào.
Sách cổ học tinh hoa có chép một câu chuyện xảy ra tại Hàn Châu. Có một người bán trái cây đã tìm ra được một bí quyết giữ cho cam lâu ngày mà vỏ cam vẫn luôn đỏ hồng. Ông bán với giá rất đắt, thế mà thiên hạ vẫn tranh nhau mua. Có người mua được một trái đem về bóc ra mới vỡ lẽ ra bên trong chỉ là một trái cam thối. Người đó bèn đem trả lại cho người bán và mắng nhiếc thậm tệ.
Người bán cam cũng chẳng có vừa. Ông ta cười nói:
– Tôi làm nghề này đã lâu, tôi bán và người ta mua, không ai than phiền, chỉ có ông mới kêu ca. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng riêng gì tôi, ông thật chẳng chịu nghĩ cho đến nơi đến chốn. Này thử xem có người đeo hộ phú, hùng dũng như một quan võ, kỳ thực không biết người đó có giỏi được như Tôn Tần, Ngô Khởi không ? Có người đội mũ cao, đóng đai dài, trông giống như một quan văn, nhưng liệu họ có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao không ? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương mà không biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn cao lương mỹ vị, oai vệ hách dịch vô cùng. Đó bề ngoài chẳng như vàng như ngọc, còn bề trong chẳng như hỏng nát là gì ? Tại sao ông không chịu đi xét những hạng người ấy, mà lại đi xét quả cam của tôi.
Chúa Giêsu cũng đã nghiêm trách những thành phần lãnh đạo thời đại của Ngài. Ngài so sánh họ với mồ mả tô vôi, bên ngoài thì sơn phết bóng bẩy, nhưng bên trong chỉ là những xác chết hôi thối.
Lạy Chúa, xin giúp con biết thờ phượng Chúa trong Thần Khí và sự thật (Ga 4,23). (Epphata)
2. Còn về vấn đề truyền thống của tiền nhân thì Chúa muốn ta phải hiểu thế nào ?
Xin đan cử một thí dụ:
Một nhà quí phái kia mở một bữa tiệc để thết đãi khách. Trong số những thực khách được mời tham dự bữa tiệc này có một bác nông dân. Sở dĩ bác nông dân này được mời vì bác là người giàu có trong vùng, lại có lòng tốt. Chính bác đã tặng cho nông dân ở trong vùng một số tiền lớn để xây cất một nhà thương.
Hôm ấy, trên bàn ăn người ta dọn ra món đầu tiên là cua nướng. Ngoài dĩa cua nướng dọn cho mỗi người, người ta còn để ở bên cạnh một ly nước nóng và một lát chanh tươi.
Vì là một nông dân, tính tình chất phác, không lễ nghi khách sáo, đàng khác có lẽ bác nông dân kia cũng đã đói, vì thế sau khi khai mạc bữa tiệc, bác đã cắm đầu cắm cổ ăn một hơi hết món cua nướng.
Ăn cua xong, thấy bên cạnh đó có một ly nước nóng và một lát chanh tươi, tưởng là để cho khách uống, nên bác nông dân vắt chanh vào nước rồi uống một hơi hết sức tự nhiên. Thực ra đây là những thứ để rửa tay, sau khi ăn món cua nướng.
Thấy bác nông dân ăn uống như thế, mọi người chung quanh đều trố mắt nhìn nhau rồi tủm tỉm cười với một sự khinh bỉ. Nhưng riêng với ông chủ nhà, khi thấy bác nông dân kia đã uống như thế, thì ông đã xử sự một cách hết sức khôn khéo. Ông cũng vắt chanh vào ly nước của ông và đưa lên uống, để bác nông dân không bị mất mặt trước những thực khách được mời hôm đó.
Thế là mọi người trong bàn tiệc hôm đó, không ai bảo ai, tất cả đều vắt chanh vào ly nước của mình, rồi bưng lên uống.
Một tập tục đã được bỏ qua. Như vậy, tập tục chỉ có giá trị tương đối. Tất cả những nghi thức bên ngoài chỉ có giá trị đích thực khi chúng hướng về Thiên Chúa, thể hiện được xã hội tính và tinh thần tôn trọng con người. Không vì những mục đích đó thì mọi nghi thức, tập tục, cung cách, chỉ là những sinh hoạt giả dối trống rỗng.
Suy niệm 3: TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy ta yêu mến tôn thờ Thiên Chúa cách chân thành, tận đáy lòng. Đừng vì những thói quen tập tục của loài người mà coi thường những giới răn của Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Chúa là Đấng cao cả trổi vượt vô cùng, nhưng đồng thời Chúa cũng ở trong lòng con, sâu thẳm trong con hơn chính con. Chúa thấu suốt mọi tư tưởng, mọi tâm tình, mọi ước muốn và việc làm của con. Con có thể giả dối với người đời nhưng không thể giả dối đối với Chúa. Tất cả cuộc đời con luôn xuất hiện rõ ràng trước Nhan Thánh Chúa, con chẳng thể che giấu Chúa điều gì.
Vậy lạy Chúa, xin Chúa tha thứ những điều giả dối hời hợt nơi con. Đã bao lần con tôn kính Chúa ngoài môi miệng mà lòng con lại xa Chúa. Khi đọc kinh, dự lễ, làm việc đạo đức và bác ái, con đã làm một cách miễn cưỡng, làm vì thói quen, làm vì sợ dư luận chứ không làm vì lòng mến Chúa. Bề ngoài có lẽ con không có gì đáng trách. Nhưng Chúa thấu tỏ lòng dạ con chưa chân thành hết tình với Chúa. Xin Chúa giúp con canh tân tâm hồn để từ nay con luôn dành cho Chúa một tình yêu chân thành nồng nàn.
Chúa đã ban cho con trái tim để yêu thương, yêu mến Chúa và yêu thương nhau, nhưng con lại bóp nghẹt con tim để làm cho đời con ra như cái xác không hồn. Dòng máu yêu thương trong con đã thành khô cạn và con chết cứng trong bệnh hình thức. Xin Chúa sưởi ấm trái tim con. Xin Chúa thúc đẩy con chạy đến với bí tích Thánh Thể để con được kín múc tình yêu từ nguồn mạch yêu thương của trái tim Con Chúa. Xin Chúa lôi kéo lòng con lại gần lòng Chúa, để từ lòng Chúa, con ra đi gieo rắc tình thương. Amen.
Ghi nhớ: “Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân”.
Suy niệm 5: Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Phân tích (Hạt giống…)
Chúa Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.
Họ bám sát mặt chữ những quy của luật lệ về sự phân biệt cái gì là sạch cái gì là dơ và về những đòi buộc về rửa tay chân chén dĩa…
Chúa Giêsu nói đó mới chỉ là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.
Ngài nhận xét đạo đức của họ chỉ là đạo đức giả: “Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta”.
Ngài còn kết án họ lấy tập tục của loài người mà thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình: Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho đền thờ, biệt phái và kinh sư dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cho cha mẹ để dâng cho Đền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Quả thật đây là một cách bóp méo Lời Chúa.
B. Suy niệm (…nẩy mầm)
1. Những sai lầm của biệt phái và kinh sư là những sai lầm mà chúng ta dễ mắc phải:
Dễ tưởng mình đã là người “công chính” rồi.
Từ đó dễ phê phán những người khác không được “công chính” như mình.
Thực ra, sống công chính là một mục tiêu phải phấn đấu suốt đời mà cũng chưa chắc đạt tới. Lời Chúa Giêsu khiển trách họ cũng là một lời khuyên chúng ta lo tu luyện bản thân hơn là để ý so sánh người khác.
+ Giữ hình thức bề ngoài dễ hơn sống tâm hồn bên trong. Rất tiếc nhiều người mới lo được vẻ bề ngoài thì đã vội tự mãn.
+ Corban là một cớ để người biệt phái dựa vào để tự chuẩn miễn những bổn phận quan trọng. Chúng ta cũng thường có những thứ Corban của chúng ta.
Nhiều khi chúng ta lấy cớ bận lo việc Chúa để trốn tránh bổn phận lo cho con người.
+ “Dân này kính Ta bằng môi miệng”.
Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng”
Bà cầu nguyện suốt ba ngày cũng vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra ngay sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện. (Góp nhặt)
2. “Dân này kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6)
Một trong những đặc trưng của kỹ thuật hiện đại là kỹ thuật làm đồ giả. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả … thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả….Những thứ ấy đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mân, quả, hoa, nến, nhang, đèn giả…mức độ “giả” còn tinh vi nên lắm khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cái thật, khó mà phân biệt được thực hư, tốt xấu: trông thật hóa “dỏm”; trông xịn hoá “xoàng”. Vì thế mới có kẻ dở khóc dở cưòi.
Nhưng tệ nhất vẫn là thứ “Giả nhân giả nghĩa”, thứ “giả hình” mà Chúa đã nặng lời khiển trách (x. Mát Thêu 23,13-29). Và thánh Gioan đã lật tẩy:
“Ai nói rằng mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Gioan 2,4);
“Ai bảo mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, ngưòi ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu ngưòi anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ trông thấy” (1 Gioan 4,20)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp cho con biết thờ phượng Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23). (Epphata)
Suy niệm 6: Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Chúa khuyên đừng dụ hình thức (Mc 7,1-13)
- Tin mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân. Đối với người Do thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch, để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng Thánh. Đây là điều tốt, nhưng người biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những hình thức bên ngoài. Điều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay, rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống với lề luật do chính Thiên Chúa ban bố.
- Thực hành lề luật không có nghĩa là chỉ thi hành những nghi thức bên ngoài và coi đó là xong nhiệm vụ. Những hình thức bên ngoài là cần thiết, nhưng chúng chỉ là những yếu tố bổ sung và phụ thuộc, mà cái cần thiết nhất là tấm lòng. Hay nói cách khác, cần nhất là cái động lực thúc đẩy chúng ta làm: nếu động lực tốt thì việc làm sẽ tốt, nếu động lực xấu thì việc làm sẽ xấu. Nếu việc làm mà thiếu động lực tốt thì việc làm chỉ là giả tạo và người làm việc ấy chỉ là giả hình: “Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, mà lòng chúng thì xa Ta” (Is 29,13).
- “Dân này kính Ta bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6).
Chẳng cần phải nói nhiều, chúng ta cũng thấy, ngày nay người ta sống giả dối với nhau rất nhiều. Cái gì ngày này người ta cũng có thể làm giả được. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả trái cây giả, gạo giả… Gần đây chúng ta còn được nghe rất nhiều thứ giả khác: bằng giả, chứng chỉ giả, tiến sĩ giả… Những thứ ấy còn đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm quả, hoa nến, nhang, đèn giả. Mức độ “giả” rất tinh vi nên nhiều khi cái giả xem ra còn đẹp hơn những cái thật, khó mà phân biệt được. Ở đây, Chúa Giêsu chỉ mới nói đến “Giả hình”. Ngày nay, còn một thứ giả tệ hơn. Đó là “Giả nhân giả nghĩa”. “Giả hình” mà còn đáng trách thì giả nhân giả nghĩa còn đáng trách hơn chừng nào.
- Chúa Giêsu khiển trách những người biệt phái và luật sĩ thờ phượng Chúa trên đầu môi chót lưỡi, còn tấm lòng lại xa cách Người. Họ chăm chăm tuân giữ các truyền thống xa xưa, còn điều răn yêu thương là cốt lõi của Lời Chúa dạy thì họ lại không tuân giữ. Chúa Giêsu cũng đả kích các nhà thông luật Do thái vì họ quá tôn trọng hình thức bề ngoài, qua đó, Người mời gọi chúng ta hãy sống thật với lương tâm của mình. Để sống đạo tốt, chúng ta cần chu toàn các lề luật của Giáo hội, nhưng đồng thời còn phải sống tình mến với Chúa và mọi người.
- Những người giả hình này đáng người ta tặng cho cái nhãn hiệu “Tốt mã dẻ cùi”. Chim dẻ cùi là một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông mã, lông đuôi sặc sỡ ngũ sắc, coi giống chim phượng. Người ta đã gọi là phượng hoàng Nam (phượng hoàng của nước Nam) hay phượng hoàng đất. Nhưng chim dẻ cùi phải cái tật hay ăn cứt chó, cứt lợn. Người ta đã có câu:
Dẻ cùi tốt mã dài đuôi,
Hay ăn cứt chó, ai nuôi dẻ cùi.
Dẻ cùi tiếng hót lại không hay, vì vậy dẻ cùi tuy đẹp mã thật, nhưng người ta không quí mà lại khinh. Người ta thường dùng câu “Tốt mã dẻ cùi” để chế giễu người bề ngoài đẹp đẽ sáng sủa, ăn vận diêm dúa mà bụng dạ bẩn thỉu không tốt mà lại vô tài (Văn Hoè, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 198).
- Ngày nay thật đáng lo ngại là cho sự khủng hoảng đạo lý nơi nhiều gia đình. Có những người con chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Giá trị đạo đức bị đảo lộn bởi có những đứa con coi vật chất là trên hết, đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con, sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão mà quên rằng bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, và cầu nguyện xin lễ cho các ngài khi đã qua đời.
- Truyện: Sư máy
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật.
Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ có một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
Suy Niệm 6: Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Ngày 8 tháng 2
THÁNH GIÊRÔNIMÔ ÊMILIANÔ, LINH MỤC,
VÀ GIÔSÊPHINA BAKHITA
I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ.
a/. Thánh Giêrônimô Êmilianô
Thánh Hiêronimô sinh tại Venise nước Ý vào năm 1481 trong một gia đình đạo đức. Vào tuổi trưởng thành như bao chàng trai khác thời đó, Thánh Hiêronimô gia nhập quân đội Ý để cùng với đất nước bảo vệ miền Castelnovo và miền Quero, thành phố đang bị địch quân chiếm đóng. Như các người lính khác, thánh nhân bị địch bắt làm tù binh và Ngài được Mẹ Maria cứu thoát một cách lạ lùng. Thánh nhân có một tấm lòng bác ái siêu vời, vì thế, Ngài hướng về các trẻ em mồ côi, những trẻ em bị mất cha mất mẹ, giáo dục và yêu thương chúng theo tinh thần Kitô giáo. Bắt đầu công việc bác ái từ thành Venise, thánh nhân rảo qua các miền khác như Brescia, Berfame, Côme và hướng dẫn, điều hành nhiều viện mồ côi và nhiều hội đoàn bác ái. Với tinh thần quảng đại, lòng bác ái vị tha, sự quan tâm yêu thương người nghèo, trẻ mồ côi, thánh nhân đã dừng chân ở Somasque, một miền quê hẻo lánh tại Bergame.
Năm 1518 khi vừa được 37 tuổi Ngài thụ phong linh mục và hiến mình làm việc bác ái, chia sẻ mọi lợi quyền cho người nghèo khó. Khi nạn đói, Ngài bán hết đồ đạc trong gia đình để phân phát cho họ. Ngài thuê nhà để qui tụ các trẻ em không nơi cư ngụ, nuôi dưỡng giáo dục và chuẩn bị cho chúng thành những công nhân Kitô hữu biết hòa trọn niềm vui tôn giáo. Chẳng hạn vào những ngày lễ, người ta thấy chúng mặc đồ trắng, từng đoàn dắt nhau đi viếng các nhà thờ ở Venitia, và ca hát trên các nhà thờ ở Venitia, và ca hát trên các công trường. Dân chúng mừng rỡ góp phần trợ giúp công cuộc cảm kích này.
Tại Somasque, thánh nhân được ơn soi sáng của Chúa và sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Ngài đã lập một Hội Dòng mới lấy tên là Somasque và Dòng của Ngài đã được Đức Thánh Cha Piô V phê chuẩn. Dòng của thánh nhân thành lập có mục đích chăm sóc bệnh nhân và lo cho các em cô nhi, các trẻ mồ côi không ai chăm sóc. Năm 1537, Ngài bị lây nhiễm bệnh đang khi hăng say săn sóc bệnh nhân và qua đời lúc 56 tuổi.
B/ Giôsêphina Bakhita
Giôsêphina Bakhita là một nô lệ trong nhiều năm nhưng tinh thần của bà luôn tự do và thanh thản. Giôsêphina sinh tại Olgossa, miền Darfur, Nam Sudan, bị bắt cóc lúc 7 tuổi, bị bán làm nô lệ và được đặt tên là Bakhita (nghĩa là “vận may”). Bakhita bị bán đi bán lại vài lần, cuối cùng là năm 1883, bà bị bán cho Callisto Legnani, lãnh sự Ý ở Khartoum, Sudan.
Hai năm sau, Callisto đưa Bakhita sang Ý và giao cho bạn ông ta là Augusto Michieli. Bakhita giữ con cho Mimmina Michieli, rồi Bakhita cùng Mimmina đến Trường Tân tòng (Institute of the Catechumens) ở Venice, do các nữ tu Canossa điều hành. Khi Mimmina đang học, Bakhita cảm thấy muốn theo đạo Công giáo. Và rồi Bakhita được rửa tội và thêm sức năm 1890, có tên là Giôsêphina. Khi gia đình Michieli trở về từ Phi châu, họ muốn đem Mimmina và Giôsêphina về với họ, Giôsêphina không chịu đi. Trong khi tìm cách kiện tụng, các nữ tu Canossa và thị trưởng Venice can thiệp giúp Giôsêphina. Thẩm phán kết luận rằng việc buôn bán nô lệ ở Ý là bất hợp pháp, và Giôsêphina được tự do từ năm 1885.
Giôsêphina vào Dòng Thánh Mađalêna Canossa năm 1893, ba năm sau Giôsêphina được tuyên khấn. Năm 1902, Giôsêphina được thuyên chuyển tới thành phố Schio (Đông Bắc Verona), ở đây bà giúp nhà dòng nấu ăn, may vá, thêu thùa và đón khách. Giôsêphina được trẻ em và dân địa phương quý mến. Có lần bà nói với họ: “Hãy sống tốt, hãy yêu mến Chúa, hãy cầu nguyện cho những người chưa nhận biết Chúa. Được biết Chúa là một hồng ân cao cả!”.
Án phong chân phước cho bà bắt đầu mở từ năm 1959. Mãi đến năm 1992, bà mới được ĐGH Gioan-Phaolô II phong chân phước và phong thánh vào năm 2000.
II. BÀI HỌC
Qua cuộc đời của hai vị thánh chúng ta mừng kính hôm nay, chúng ta nhận thấy việc Chúa làm thật là kỳ diệu. Đúng như lời thánh Phaolô đã nói: “Tất cả là hồng ân”.
Nhờ việc bị bắt là tù nhân mà thánh Giêrônimô Êmilianô thấy được nỗi bất hạnh và thống khổ của những con người bị bỏ rơi trong cuộc sống để rồi từ đó ngài dấn thân vào công việc lo cho những người bị bỏ rơi này, giúp cho họ có sống xứng đáng với nhân phẩm của con người hơn. Cũng như thánh Giôsêphina Bakhita nhờ sống cuộc đời của một người mang thân phận nô lệ mà Ngài hiểu được những bất hạnh và nỗi khổ đau của những con người bị xã hội đối xử một cách bất công để rồi từ đó Ngài chiến đấu để xóa bỏ đi chế độ buôn bán nô lệ trên thế giới giúp cho mọi người biết đối xử với nhau tử tế hơn theo đúng ý định nhân lành của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới này có được nhiều người biết hy sinh chịu đau khổ để cứu giúp những người đau khổ, giúp cho họ có được một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc hơn
Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô Cả (Grégoire le Grand) thế kỷ thứ 6 có thuật lại câu chuyện về thánh Paulin, giám mục giáo phận Nola vùng Florence nước Ý.
Thánh Paulain sinh năm 353 và mất vào năm 431. Khi quân Vandales nước Đức tràn sang xâm lược nước Ý, đã bắt một số đông các cư dân khỏe mạnh ở đây bán cho bọn buôn nô lệ. Đức giám mục Paulain đã đem toàn bộ tài sản riêng của gia đình vốn có gốc quý tộc, để chuộc lại tự do cho rất nhiều người. Nhưng đến khi ngài chẳng còn gì nữa thì có một người đàn bà nghèo khổ đáng thương đến khóc lóc van nài: “Lạy ngài, xin hãy cứu lấy đứa con trai duy nhất của con!”
Đức Cha Paulain đành đau xót thú nhận: “Nhưng tôi có thể làm được gì bây giờ ? Tôi đã dùng cạn hết số tiền tôi có để chuộc lấy những kẻ bất hạnh như con của bà mất rồi!” Người phụ nữ quỵ xuống vì tuyệt vọng.
Thánh nhân thầm cầu nguyện rồi quyết định tiến đến, đỡ bà lên mà bảo: “Thôi, bà cứ yên tâm, tôi không còn tiền nữa, nhưng tôi sẽ xin được làm nô lệ thay cho con trai của bà!” Người mẹ bừng lên niềm hy vọng, nhưng chợt tái mặt đi, kêu lên thảng thốt: “Không, không thể như thế được, ngài là giám mục cơ mà ?”
Đức cha ngước mắt đăm đăm nhìn trời, ngài nhỏ nhẹ nói: “Tại sao lại không thể được nhỉ ? Chính Con-Thiên- Chúa cũng đã chẳng tự nguyện trở nên nô lệ vì tất cả chúng ta đó sao ? Hơn nữa, con trai của bà còn trẻ, anh ta có thể mất kiên nhẫn chịu đựng trong cảnh lầm than tủi nhục của đời nô lệ, và vì thế anh ta có thể mất cả Đức Tin. Còn tôi thì trái lại, tôi tin Chúa sẽ giúp tôi giữ gìn được cả hai, linh hồn và thể xác…”
Thế là thánh giám mục Paulain xin nhập vào đoàn người nô lệ. Ngài nói với tên chủ nô là ngài có biết nghề làm vườn rất thông thạo. Hắn quả đang có mối cần mua một người như thế, hắn liền chấp thuận đổi lấy ngài mà thả cho anh thanh niên được về với mẹ…
Sau một thời gian, người chủ đã mua thánh Paulain từ đoàn nô lệ, nhận ra ngài là một người đức độ khôn ngoan, hằng ngày ông thường tìm dịp để nói chuyện với ngài và dần dần học biết giáo lý Đức Ki-Tô.
Một hôm, thánh nhân báo cho ông biết nhà vua xứ Vandales đang lâm trọng bệnh sắp chết, và chắc chắn sẽ chịu sự phán xét của Thiên Chúa về những việc tàn bạo đã làm. Lời tiên báo này được truyền tới tai nhà vua, ông ta hốt hoảng, vội cho mời thánh nhân và hỏi xem ngài là ai, tại vì sao lại rơi vào kiếp nô lệ ? Hiểu rõ được sự tình, vua hồi tâm sám hối, ra lệnh trả tự do vị giám mục cùng tất cả những người bị bắt nô lệ ở thành Nola. Vua còn giúp cho họ một chiếc thuyền lớn chở đầy lương thực để trở về cố hương bình an.