“Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này,
vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng”. (Lc 11,32)
Suy Niệm Lời Chúa
Thứ Tư Tuần 1 Mùa Chay
09/03/2022
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Luca: Lc 11, 29-32
Khi ấy, thấy đám đông tụ họp đông đảo, Ðức Giêsu bắt đầu nói: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác; họ xin dấu lạ. Họ sẽ không được ban một dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna. Quả thật, ông Giôna đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salômôn; mà đây thì còn hơn vua Salômon nữa. Trong cuộc Phán Xét, dân thành Nivivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giôna rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giôna nữa.”
Suy niệm 1: Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Khi đọc chuyện ông Giôna người Galilê, ai cũng nhớ ông đã bị cá nuốt ba ngày.
Sau đó ông lại được cá khạc ra trên đất liền mà vẫn còn sống.
Nhưng điều đáng nhớ hơn là sau kinh nghiệm đó Giôna đã biết vâng phục Chúa.
Ông chấp nhận đi giảng cho dân Ninivê, một dân ngoại ở vùng là Irắc bây giờ.
Thật không ngờ, lời rao giảng của ông đã kéo cả nước vào một cuộc hoán cải,
Từ vua đến dân, thậm chí cả súc vật, đều ăn chay, sám hối việc mình làm.
Thái độ của họ đã làm Đức Chúa đổi ý, không đoán phạt nữa.
Đức Chúa không muốn trừng phạt, Ngài chỉ mong con người sám hối.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nỗi buồn của Đức Giêsu
khi dân chúng đòi dấu lạ, dù họ đã thấy nhiều phép lạ của Ngài.
Dấu lạ ở đây phải hiểu là một điềm báo hoành tráng từ trời
để chứng thực về con người và sứ mạng của Ngài.
Khi bị cám dỗ trong hoang địa, Ngài đã không nhảy xuống từ nóc Đền thờ.
Ngài không muốn mua lòng tin của con người bằng một cử chỉ ngoạn mục.
Bây giờ Ngài cũng dứt khoát từ chối:
“Họ sẽ không được ban một dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna”.
Dấu lạ ông Giôna không phải là chuyện ông bị cá nuốt mà còn sống.
Dấu lạ là chính con người của ông với việc rao giảng của ông.
Dân Ninivê đã sám hối khi nghe Giôna giảng,
nhưng thế hệ đương thời với Đức Giêsu đã từ khước Ngài.
Họ là một thế hệ gian ác (c. 29) vì không chịu sám hối.
“Đây còn hơn Giôna, đây còn hơn Salômôn” (cc. 31-32).
Đức Giêsu đã không thành công bằng hai ông này.
dù lời giảng của Ngài còn khôn ngoan hơn lời của vua Salômôn
và thuyết phục hơn lời giảng của ngôn sứ Giôna.
Dân Ninivê và nữ hoàng Shêba sẽ kết án thế hệ này vì sự cứng cỏi của họ.
Mùa Chay là thời gian đọc lại những chuyện lạ Chúa đã làm cho đời mình.
Có những chuyện bề ngoài tưởng là chuyện tự nhiên hay ngẫu nhiên.
Chỉ ai biết nhìn mới thấy lạ.
Có khi chúng ta vẫn thèm Chúa làm một cái gì đó thật kinh khủng
để ta mạnh mẽ đổi đời và từ bỏ hoàn toàn nếp sống cũ.
Làm sao để lòng sám hối đến từ việc nhận ra những chuyện nhỏ bé
mà Chúa vẫn làm cho ta mỗi ngày nhiều lần?
Cầu nguyện:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu giãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Suy niệm 2: Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ,
vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giôna rao giảng”. (Lc 11,32)
1. Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta sám hối.
Khi nhắc lại truyện Giona, Chúa Giêsu cảnh cáo những người Do Thái thời của Ngài: “Dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giona giảng, mà đây thì còn có Đấng hơn ông Giona nữa” (Lc 11,32).
a/ Sám hối gồm 4 điều:
1/ Biết mình có tội.
2/ Buồn.
3/ Tin vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
4/ Quay về với tình thương ấy.
Thiếu một trong bốn điều trên đây thì không phải là sám hối thật.
b/ Sám hối là điều làm vui lòng Thiên Chúa vì qua đó con người biết nhận ra tội lỗi của mình. Nhận ra tội lỗi của mình, đó là bước quan trọng nhất trên con đường trở về với Chúa.
Đức Cha Pierre de Corbeille Tổng Giám Mục giáo Phận Seine nước Pháp, một ngày nọ thấy một tội nhân đến quì sụp dưới chân ngài để xin xưng tội. Anh ta tha thiết van nài ngay từ đầu là xin ngài hãy bắt anh nhận một việc đền tột thật nặng.
Sau khi nghe xưng thú, Đức Cha bảo:
– Tất cả tội lỗi của con hết sức nghiêm trọng. Vì vậy theo như ý con mong muốn, ta ra việc đền tội cho con là phải tự đánh đòn mỗi ngày trong 7 năm.
Anh ta ngước mắt lên khóc ròng:
– Thưa Đức cha, như thế vẫn còn quá nhẹ, không đủ đền bù tội lỗi của con, con xin được làm việc ấy vĩnh viễn cho đến chết!
Đức Cha nghe vậy thì chậm rãi bảo anh:
– Vì tấm lòng thành của con, ta quyết định bớt cho con: chỉ còn ba năm phải ăn chay và uống nước lã!
Thế nhưng, anh ta lại đấm ngực thổn thức:
– Thưa không, lạy Đức Cha, việc đền tội như thế chưa cân xứng với tội lỗi con đã phạm. Nói cho cùng con chỉ xứng đáng lãnh nhận cái chết mà thôi!
Cảm động trước lòng ăn năn thống hối của anh ta, Đức Cha Pierre de Corbeille đã đỡ anh ta dậy, nhìn thẳng vào đôi mắt đẫm lệ của anh rồi bảo:
– Này con thân yêu, việc đền tội của con bây giờ chỉ còn là đọc một kinh lạy Cha, chỉ một kinh lạy Cha thôi. Ta tin chắc Thiên Chúa sẽ hài lòng về con!
Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp tình yêu.
2. Quả thực như thế, khi con người phạm tội, họ không còn cách nào khác để sửa lại lương tâm của mình bằng sự sám hối.
Nhận ra tội lỗi của mình, đó là bước quan trọng nhưng nếu chỉ dừng ở đó thì chưa phải là sám hối đúng nghĩa. Sám hối còn phải là làm lại cuộc sống. Có như thế thì sám hối mới có hậu.
Tạp chí kinh tế Viễn Đông mới đây có ghi lại chuyện tự nộp mình rất đáng khâm phục của một tên cướp như sau: Một đêm nọ, vì quá mỏi mệt với cuộc sống chui lủi, tên cướp khét tiếng đã ra đầu thú. Trước thái độ hồ nghi của viên công an trực, tên cướp đã chỉ vào vết sẹo để khẳng định rằng, chính mình là người đã từng bị lực lượng an ninh tầm nã trong mấy tháng qua. Nhân viên công an vẫn tiếp tục nghi ngờ, nhất định không cho anh vào khám, còn kẻ cướp thì dứt khoát không chịu bỏ đi. Phải đợi đến sáng hôm sau, các viên chức công lực mới nhận diện được người mà họ đã truy nã trong mấy tháng qua. Tên cướp cho biết, anh đã kiệt sức vì cuộc chạy trốn, hằng đêm anh không thể ngủ yên khi nghe tiếng chó sủa, ngay cả tiếng gà gáy. Bước vào phòng giam, tên cướp nhìn vào viên công an trực của đêm hôm trước với vẻ đắc thắng.
Mọi người chúng ta đều là tội nhân. Vì thế mà từng người chúng ta cần phải sám hối. Việc sám hối như thế sẽ làm vui lòng Thiên Chúa và thần thánh trên trời. Làm sao chúng ta quên được lời quả quyết của Chúa Giêsu “Cả Thiên Đàng sẽ hân hoan vì một tội nhân hối cải”(Lc 15,7). Chẳng những làm cho Thiên Đàng vui, mà lòng sám hối, sự hoán cải còn là chìa khóa hạnh phúc và an bình cho chính bản thân ta, cho gia đình, xã hội và mọi người chung quanh ta nữa.
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Ðấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. Amen.
Suy niệm 3: TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa gởi đến cho ta. Cần phải biết đón nhận bằng cách thành tâm lắng nghe lời khôn ngoan của Tin Mừng, đồng thời tin vào việc làm và đời sống của Chúa Giêsu để hoán cải.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong tình yêu nhân loại, con thấy không gì đau khổ cho bằng nghi ngờ và từ chối tình yêu của nhau. Và từ đó con hiểu được phần nào Chúa rất khổ tâm vì con lòng chai dạ đá. Chúa yêu thương con và đã hiến trọn cuộc đời của Chúa để biểu lộ tình yêu của Chúa Cha đối với con. Tin Mừng của Chúa, lòng thương xót tha thứ của Chúa, tình yêu Chúa rong ruổi đi tìm những con chiên lạc và bênh vực an ủi những kẻ khổ đau bé nhỏ, cuối cùng là sự hy sinh hiến mạng sống vì người mình yêu. Tất cả đều là lời mời gọi, là dấu chỉ biểu lộ tình yêu Chúa dành cho con. Thế mà lạy Chúa, con chưa nhận ra lời mời gọi của tình yêu. Con vẫn khép lòng và nhắm mắt như những người Do Thái xưa.
Lạy Chúa, đối với những người thực tình yêu mến, tất cả đều có ý nghĩa, mọi biến cố đều là lời mời gọi, mọi sự kiện đều là tiếng nói. Đã bao lần Chúa dùng lời Tin Mừng, lời giáo huấn của Hội Thánh, lời của cha mẹ, con cái, anh chị em, để mời gọi con. Đã bao lần Chúa để xảy đến cho con những biến cố vui buồn sướng khổ để nhắc bảo con. Nhưng con chẳng muốn thấy, chẳng thèm nghe, mà chỉ đổ xô chạy tìm những phép lạ hay những tin giật gân của dư luận. Lạy Chúa, nếu con thiếu tình yêu, thì bao nhiêu dấu lạ cũng chẳng đủ cho con. Xin Chúa ban cho con một tấm lòng thành để con đón nhận Chúa và tin yêu Chúa. Xin Chúa cho con được thật tình yêu Chúa, một tình yêu bén nhậy và tế nhị, để con về với Chúa và tựa sát lòng Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Không ban cho dòng giống này điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona”.
Suy niệm 4: Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A- Phân tích (Hạt giống…)
Cả hai bài đọc Cựu Ước và Tân Ước đều nhắc tới “dấu chỉ Giôna”:
– Ngày xưa ngôn sứ Giôna đã kêu gọi dân thành Ninivê tội lỗi lo ăn năn sám hối. Mọi người trong thành, từ vua quan đến dân chúng lớn nhỏ, đều đáp lại lời kêu gọi ấy. Chúa thấy lòng thành của họ nên đã tha thứ và không phạt họ.
– Khi nhắc lại chuyện Giôna, Chúa Giêsu cảnh cáo những người do thái thời Ngài: “Dân thành Ninivê sẽ chổi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giôna rao giảng; mà đây thì còn có Đấng hơn ông Giôna nữa”.
Như thế, Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta sám hối.
B- Suy gẫm (… nẩy mầm)
1. Sám hối gồm 4 điều: 1/ biết mình có tội; 2/ buồn; 3/ tin vào tình thương tha thứ của Chúa; 4/ quay về với tình thương ấy. Thiếu 1 trong những điều trên thì không phải là sám hối thật.
2. Trong chuyện Giôna, hình ảnh dân thành Ninivê tội lỗi lại dễ thương hơn hình ảnh Giôna ngôn sứ. Ông không muốn tuân theo lệnh Chúa. Ông chỉ muốn dân Ninivê bị phạt. Khi dân thành này sám hối và được tha thì ông giận Chúa. Chúa dùng tấm gương của họ để kêu gọi Giôna sám hối. Thật lạ lùng: người giảng sám hối lại sám hối sau người nghe giảng. Là những người giảng cho người ta sám hối trong Mùa Chay này, Linh mục tu sĩ chúng ta nghĩ sao về chuyện này ?
3. Người cha rất đau khổ vì đứa con trai theo bạn bè phung phá hết tiền của. Cùng đường, chàng ta viết thư thống thiết xin lỗi cha và ngỏ ý xin cha thương xót. Người cha gửi cho cậu bức điện tín, chỉ có một chữ “Về” và kí tên cũng chỉ một chữ “Cha”.
Phúc Âm của Chúa cũng là bức điện tín gửi cho thế giới tội lỗi này, với một chữ viết “Về” và một chữ kí “Cha”. (Góp nhặt)
Suy niệm 5: Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Hãy thay đổi chính mình (Lc 11,29-32)
- Ngày xưa tiên tri Giona đã kêu gọi dân thành Ninivê tội lỗi lo ăn năn sám hối. Mọi người trong thành, từ vua quan đến dân chúng lớn nhỏ, đã đáp lại lời kêu gọi ấy. Chúa thấy lòng thành của họ nên đã tha thứ và không phạt họ.
Còn các luật sĩ và biệt phái đã từng nghe Đức Giêsu giảng dạy và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài đã làm, nhưng họ đã không nhận ra thân thế của Ngài là Đấng Cứu Thế. Họ còn đòi Ngài phải làm phép lạ lớn trên trời để họ tin. Khi nhắc lại chuyện Giona, Đức Giêsu cảnh cáo những người Do thái thời Ngài: “Dân thành Ninivê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân này đã sám hối khi nghe ông Giona rao giảng”. Như thế, Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta sám hối.
- “Ông Giona đã ở trong bụng cá ba ngày…”
Hồi Đức Giêsu ở Galilê, các luật sĩ đã xin Ngài cho xem điềm lạ trên trời. Nay các biệt phái ở Giuđê cũng lại yêu cầu điều đó. Cũng như lần trước, Ngài không cho, vì biết họ chỉ có ý khiêu khích Ngài. Ngài hứa cho họ xem một phép lạ cả thể: đó là việc Ngài chết và sống lại. Nhưng Ngài mượn tích chuyện ông Giona để nói với họ.
Theo tích truyện, ông Giona khi bị ném xuống biển thì có một con cá lớn nuốt ông vào bụng, giữ ba ngày đêm, rồi nhả ông ra trên bãi biển. Câu chuyện này có ý nói đến việc Đức Giêsu sẽ chịu chết, nằm trong mộ ba ngày rồi sẽ sống lại ra khỏi mồ.
- Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu dựa vào câu chuyện về điềm lạ Giona để kêu gọi sự sám hối. Đáp lại lời kêu gọi đó, thánh Luca cho chúng ta thấy có ba thái độ:
– Các biệt phái cứng lòng và gian ác, họ đòi một điềm lạ trên trời, vì họ đã không tin vào những phép lạ Đức Giêsu đã làm. Đó là tội từ chối ánh sáng, tội phạm đến Thánh Thần.
– Dân thành Ninivê mau mắn nghe lời và nhiệt tâm sám hối theo lời kêu gọi, nên họ đã được Thiên Chúa thứ tha.
– Nữ hoàng Sêba không những cảm phục những lời lẽ khôn ngoan của vua Salomôn, mà bà ta còn trở thành người rao giảng các lời ấy cho dân nước của mình.
- Muốn sám hối thì cần phải biết mình, biết mình có tội để sám hối, nhưng trong thực tế, biết mình là một truyện khó, vì người ta thường nói: “Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê”: việc người thì sáng, việc mình thì quáng, chỉ biết người mà lại không biết mình.
Nhân đây chúng ta hãy xem ý kiến của Lm. Carôlô như thế nào khi nói: Trong chuyện Giona, hình ảnh dân thành Ninivê tội lỗi lại dễ thương hơn hình ảnh Giona tiên tri. Ông không muốn tuân theo lệnh Chúa. Ông chỉ muốn dân Ninivê bị phạt. Khi dân thành này sám hối và được tha thì ông giận Chúa. Chúa dùng tấm gương của họ để kêu gọi Giona sám hối. Thật lạ lùng: người giảng sám hối lại sám hối sau người nghe giảng. Là những người giảng cho người ta sám hối trong Mùa Chay này, linh mục tu sĩ chúng ta nghĩ sao về chuyện này ?
- Khi được hỏi làm sao để có thể giúp đỡ cho rất đông người nghèo khó như vậy, Mẹ Têrêsa Calcutta trả lời: “Chúng tôi không phục vụ để thành công, chúng tôi phục vụ để làm chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa Tình yêu”.
Trong niềm tin của người Do thái, câu chuyện tiên tri Giona là một câu chuyện lạ lùng. Ông là một người nước ngoài, nhưng đã đến thành Ninivê để loan báo Lời Thiên Chúa. Dân ở đây tin tưởng ông và hoán cải. Đức Giêsu cũng đã đến, đã làm nhiều phép lạ và kêu gọi dân sám hối, nhưng họ không nghe vì không tin Người đến từ Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã đến trần gian 2000 năm, nhưng ngày nay, còn có rất nhiều người chưa tin Người là Thiên Chúa. Thế giới hôm nay ngập tràn bạo lực, vô cảm và thiếu vắng tình thương. Chúng ta phải làm gì để dấu lạ tình yêu Thiên Chúa được tỏ ra trong trần gian này ?
- Truyện: Hai chữ S và T.
Tại một miền quê ở nước Mỹ vào thời mới lập quốc, có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang đang ăn cắp cừu, dân chúng trong làng đã mở toà án nhân dân để trừng phạt.
Sau khi nghe báo cáo về tội trạng của họ, mọi người nhất trí trừng phạt bằng cách khắc trên trán tội nhân hai chữ viết tắt ST, có nghĩa là “người ăn cắp cừu”. Người ta đã dùng sắt nung đỏ khắc trên trán họ hai chữ ST rồi thả về. Hai chữ ST thành hai vết sẹo rõ ràng trên trán họ, khiến họ xấu hổ vô cùng. Vì thế, một trong hai người ăn trộm không chịu nổi sự sỉ nhục, nên đã trốn sang một vùng khác để sống. Nhưng anh không thể xoá nhoà được hai chữ viết tắt trên trán của mình. Bất cứ người lạ nào gặp anh đều hỏi anh về ý nghĩa của hai chữ ấy. Một lần nữa, không chịu nổi sự nhục nhã, anh lại rời bỏ nơi ấy và lang thang sang miền khác, nhưng đến đâu anh cũng bị người ta hỏi về hai chữ tắt ấy. Cuối cùng mòn mỏi trong cay đắng, anh đã bỏ mình nơi đất khách quê người.
Đó là người anh, còn người em thì sao ? Anh ta nghĩ rằng: “Nếu anh mình đã bị sự nhục nhã gặm nhấm đến độ phải trốn suốt cả cuộc đời, thì anh lại tự nói với mình, tôi không thể bỏ trốn chỉ vì ăn cắp mấy con cừu, tôi phải ở lại đây và tôi phải tạo lại sự tin tưởng nơi những người xung quanh và nơi chính tôi”. Với quyết tâm đó, anh đã ở lại trong xứ sở của mình, và không bao lâu anh đã xây dựng được cho mình một sự nghiệp cũng như danh thơm của một người thanh liêm chính trực.
Nhưng cho dù năm tháng có qua đi, hai chữ ST vẫn còn ghi đậm tên vầng trán của anh. Ngày kia, một người lạ mặt hỏi cụ già trong làng về ý nghĩa hai chữ viết tắt ấy. Cụ già suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Tôi không nhớ rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của người đó, tôi nghĩ rằng chữ viết tắt ST ấy có nghĩa là Saint “thánh thiện”.
Ngày 9 tháng 3
THÁNH PHANXICA RÔMA – NỮ TU (1384 – 1440)
I. ĐÔI HÀNG TIỂU SỬ
Thánh nữ Phanxica Rôma (Francesca di Bussi di Leoni) được gọi là người Rôma hay là người “rất Rôma trong số các vị thánh”, chỉ vì Bà được sinh ra trong một gia đình quí tộc Rôma và sống suốt đời tại đây, vào lúc Giáo Hội Đông Phương ly khai khỏi Giáo Hội Tây Phương (1378-1417) và bệnh dịch tàn phá thành phố vào năm 1413-1414.
Được rửa tội và thêm sức tại đại thánh đường Saint-Agnès, kết hôn vào lúc 13 tuổi với quận công Lorenzo Ponziani, có được 3 người con. Phanxica sống với chồng 37 năm, cho đến lúc ông qua đời. Bà thật là một mẫu gương làm vợ và làm mẹ.
Dù rất tất bật trong gia đình, Phanxica cùng với chị dâu và cũng là bạn Vanozza, thích cầu nguyện, thực hành sám hối, viếng nhà thờ và các nhà thương, để chăm sóc người nghèo và bệnh nhân. Theo Hạnh thánh, Bà luôn làm sự lành để đối lại sự ác, luôn tạo việc thiện cho những người nói xấu, phê bình và chăm chích đời sống của Bà.
Khi chồng qua đời, Phanxica bỏ lâu đài Transtévère để chia sẻ đời sống với các người “Tận hiến cho Đức Maria – Oblates de Marie” mà Bà tập họp lại, theo luật Dòng thánh Bênêđictô, trong nhà Tor de’ Specchi tại Rôma. Các Bà đạo đức này sống cuộc đời khổ hạnh và phục vụ các công việc bác ái.
Được Thiên Chúa ban cho nhiều hồng ân đặc biệt, ngất trí và thị kiến, Phanxica sống rất mật thiết với Thiên Thần giữ mình của Bà. Bà qua đời ngày 09.03.1440 khi đến nhà người con Battista đang đau. Những lời cuối cùng Bà nói với những người con tinh thần của Bà: “Hãy trung thành cho đến lúc chết. Satan sẽ tấn công các chị cũng như đã tấn công tôi, nhưng không có thử thách nào dữ tợn cả, nếu chúng ta trung thành với Chúa Kitô.”
Ðức Giáo Hoàng Phaolô V đã tôn ngài lên bậc Hiển Thánh năm 1608.
Bà được chọn làm thánh quan thầy của các Bà đã lập gia đình, các Bà goá và các người lái xe. Mỹ thuật trình bày Bà cùng với Thiên Thần giữ mình và mang một thúng thực phẩm.(Enzo Lodi)
II. BÀI HỌC
Người Rôma rất kính trọng thánh nữ Phanxica vì Bà đã có “một đời sống gương mẫu trong hôn nhân và sau đó là đời sống của một nữ tu”. Làm sao để một con người với hai chức năng quan trọng như thế có thể hoàn thành xuất sắc được bổn phận của mình ? Hay nói một cách dễ hiểu hơn là động lực nào đã giúp Phanxica chu toàn được hai bổn phận đó ?
Chiêm ngắm cuộc đời của thánh Phanxica, anh em trong nhóm Phụng vụ Giờ Kinh đã cho chúng ta câu trả lời. Đó là tình yêu. Tình yêu đã mang lại sức mạnh khôn lường cho Phanxica để bà có thể dễ dàng hoàn thành một cách xuất sắc tất cả mọi việc trong cuộc sống bổn phận của mình cũng như đem lại nhiều công chính cho con người chúng ta. Tất cả chỉ vì tình yêu.
Chúng hãy xin Chúa ban cho chúng ta một lòng yêu mến thiết tha để chúng ta có thể gắn bó với Chúa trọn vẹn cuộc đời của chúng ta và làm cho cuộc sống mỗi người chúng có nhiều niềm vui và hạnh phúc hơn.
Một bà kia không hề biết đến sự yêu thương của đồng loại. Bà là một người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị bạc đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo:
– Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là gì cả.
Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn cứ canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngãi cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ Tông Đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này vẫn còn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.
Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha trở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt:
– Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu thương của Thiên Chúa.
Một giáo sư lớp xã hội học đưa các sinh viên tới khu ổ chuột Baltimore để làm hồ sơ lý lịch cho 200 bé trai. Qua các câu hỏi để làm bản lượng giá về tương lai các em, các sinh viên đều nhận định về từng em: “Không có hy vọng tiến thân!”
Hai mươi lăm năm sau, một giáo sư xã hội học khác anh có đọc qua bản nghiên cứu trước đây. Ông cho các sinh viên triển khai đề tài và tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra cho những bé trai này. Trừ 20 em đã đi nơi khác hay đã chết, các sinh viên thấy 176 trong số 180 em còn lại đã thành đạt, trở nên những luật sư bác sĩ và thương gia…
Giáo sư rất ngạc nhiên và quyết định tìm hiểu vấn đề sâu xa hơn. May mắn thay, các đối tượng đều ở trong vùng đó nên ông có thể hỏi từng người:
– Xin bạn cho biết lý do sự thành công của bạn.
Mọi người đều trả lời trong xúc động:
– Chúng tôi đã đạt tới thành công nhờ tình thương của một vị thầy.
Vị thầy đó vẫn còn sống. Đó là một bà lão tuy già nhưng vẫn còn minh mẫn. Giáo sư hỏi bà đã dùng phương thức thần diệu nào để kéo những bé trai đó ra khỏi khu ổ chuột và đạt được thành công như vậy.
Đôi mắt bà lão sáng lấp lánh và một nụ cười tươi nở trên môi, bà nói:
– Thật là đơn giản, tôi đã thương yêu bọn chúng ?