Những câu này dẫn nhập cho “ba dụ ngôn về lòng thương xót”. Con chiên lạc được tìm thấy, đồng tiền mất lại tìm được, đứa con mất được gặp lại. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể ra để biện hộ. Vậy tôi bắt đầu nhìn ngắm Đức Giêsu giữa các người tội lỗi, đang đồng bàn với họ – ôi! Chiếc “bàn” kỳ diệu biết bao…
CHÚ GIẢI TIN MỪNG
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY NĂM C
NGÀY 27/03/2022
Noel Quesson – Chú Giải
Tất cả những người thu thuế vậ những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu và nghe Người. Còn những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư thì lẩm bẩm: “ông này đón tiếp phường tội lối và ăn uống với chúng: Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này”.
Những câu này dẫn nhập cho “ba dụ ngôn về lòng thương xót”. Con chiên lạc được tìm thấy, đồng tiền mất lại tìm được, đứa con mất được gặp lại. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể ra để biện hộ. Vậy tôi bắt đầu nhìn ngắm Đức Giêsu giữa các người tội lỗi, đang đồng bàn với họ – ôi! Chiếc “bàn” kỳ diệu biết bao…
Những người tội lỗi đang ngồi ở đó với Đức Giêsu. Lạy Chúa, Chúa đã nói gì với họ, để lôi cuốn họ, khiến những kẻ khác phải lẩm bẩm?
Một người kia có hai con trai…
Chúng ta có tập quán không hay chỉ nghe phần đầu của dụ ngôn, phần nói về người con trai thứ nhất, đứa con hoang đàng. Nhưng người cha mới là nhân vật chính: “Một người kia có hai đứa con trai”. Đó là dụ ngôn “người cha hoang phí” mà ta sắp nghe. Dụ ngôn là một bi kịch, gồm hai hồi: Cuộc xung đột giữa một người cha và hai đứa con của ông thương yêu đồng đều và nồng nàn nhất. Đó là một câu chuyện thường được sống lại trong nhiều gia đình. Hỡi các người cha và các bà mẹ trên thế gian, đó chính là bi kịch của Thiên Chúa mà các ông bà đang sống. Vậy các ông bà hãy lắng nghe câu chuyện tình yêu đẹp nhất hình ảnh đẹp nhất của Thiên Chúa!
- Hồi thứ nhất: Thái độ của nguời cha với người “con út”.
Người con thứ nhất nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con.
Người con này chỉ là một kẻ hưởng thụ: Anh ta đòi hỏi tiền, yêu sách thật nhiều tiền. Anh ta chỉ nghĩ đến mình. Anh ta nhận được tất cả từ cha mình, nhưng không biết điều đó. Anh ta chỉ biết làm có một việc: đòi hỏi, yêu sách, áp lực – khiếu nại…
Người cha có thái độ hoàn toàn ngược lại với anh ta. Ông chỉ cho không, luôn chia sẻ, cho cách vô vị lợi, tôn trọng tự đo kẻ khác. Ong là chính tình yêu! Qua hình ảnh người cha này, Đức Giêsu nói với ta về Thiên Chúa. Chúng ta có hình dung Thiên Chúa như thế không?
Ít ngày sau, người con thứ góp tất cả, rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiều, nên phải đi ở cho một người dân trong vùng, người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm tự nhủ: Biết bao nhiêu người’ làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói? Thôi ta đứng lên đi vế cùng cha và thưa với người. Thưa cha con thật đắc tôi với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa, xin coi con như một người làm công cho cha vậy: Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha…
Người con út này là hình ảnh của người tội lỗi, mà người Pharisêu thường hình dung ra.
- a) Đó là người con nổi loạn, đòi độc lập, tượng trưng cho khuynh hướng vô thần thuộc mọi thời đại: thụ hưởng “của cải” của Thiên Chúa mà không nhìn nhận Người, lìa xa Thiên Chúa, muốn gì làm đó mà không cần kiểm soát: “’Đâu biết đến Thiên Chúa, đâu biết đến chủ tể nào”. Thái độ này không phải ngày nay mới có.
- b) Hơn nữa với người Pharisêu, người con Ít-ra-en này đã sa xuống vực thẳm của đê tiện. Anh ta tự bán mình làm nô lệ cho một người dân ngoại, như vậy anh không còn tôn trọng ngày Sabát nữa, đâu còn giữ nghi thức ăn uống theo luật nữa: Anh ta chăn heo loại thú dơ bẩn, bị cấm và đầy ghê tởm.
- c) Ngoài ra chỉ nhìn theo quan điểm thuần túy con người, thì sống như vậy cũng không có luân lý: Đó là một con người hư hỏng, không còn bản chất người, bị xuống cấp tụt xuống hạng thú. Chính anh ta cũng sống như một thứ heo: tiền bạc, ăn uống, dục tính, chỉ biết cái tôi và cái tôi.
Người ta tăng cường sự trang điểm cho anh, vì cảm phục anh trở về. Nhưng anh ta vẫn lấy lợi ích riêng của mình làm chúa tể: “Nhét cho đầy bụng”. Sự trở về nhà của anh ta, dù có nói hay thế nào đi nữa cũng chỉ là một sự tinh toán bủn xỉn để tìm được chỗ ăn chỗ ở. Anh ta đau bụng hơn đau lòng. Đó là đứa con thật tội nghiệp, nạn nhân của bản năng mình, của bạn bè mình: Nó đã mất thói quen thương yêu. Nó chỉ còn biết nghĩ đến mình.
Lạy Chúa đó cũng là hình ảnh của con! Than ôi, con vẫn thường sống như thế đó:
Anh ta còn ở đằng xa thì người cha đã trông thấy ông chanh lòng thương, chay ra ôm cổ anh và hôn lấy hôn để.
Chúng ta cần ghi nhận, không cần người con mở miệng thưa gởi, thì người cha đã làm tất cả rồi. Ông thể hiện bốn cử chỉ: “ông thấy anh ta đằng xa”, “ông chanh lòng thưng”, “ông chay đến, ông ôm hôn”. Có lẽ việc “chay đến” là cử chỉ mạnh nhất trong dụ ngôn này. Thông thường không khi nào một bề trên lại chay tới một bề dưới, nhất là khi kẻ dưới lại có một thái độ bất bình với họ.
Vâng, người ta làm sai hoàn toàn ý nghĩa dụ ngôn của Đức Giêsu khi trình bày cuộc trở về của người con này, như một gương “hoán cải”. Nếu Đức Giêsu chỉ mô tả thái độ “ăn năn” của một người tội lỗi, thì giáo huấn đó có thể đã không làm cho người Pharisêu bất bình. Vì từ lâu tại ít-ra-en, như toàn bộ Kinh Thánh minh chứng, người ta đều biết rằng, Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi biết ăn năn. Nhưng ở đây, cách đối xử của người cha này đi quá xa. Ong không cần biết đến con ông có biểu lộ chút ăn năn thực sự nào không. Vừa thấy con từ đằng xa, ông đã chay đến gặp nó. Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, những việc làm sám hối đền tội của nó; nhưng Người chỉ muốn nhấn mạnh về tình yêu nhưng không của người cha, một người cha đã tha thứ trước khi con ông thú tội, không đặt một điều kiện nào hết! Đức Giêsu nói với chúng ta làm con là như thế nào: Trước tiên đó không phải là cần có một thái độ nào đối với cha mẹ mình, nhưng là được cha mẹ mình thương yêu, dù xứng đáng hay bất xứng. Đó là điều đã được mạc khải trong ngôn sứ Hôsê: “Chúa vẫn trung thành tiếp tục thương yêu người bất trung” (Hs 2-3, 1 – 11, 1 – 9, 14, 5-9). Lạy Chúa, Chúa thương yêu chúng con với một tình yêu vô bờ.
Các bạn tự cho mình là vô thần, hay thực tế sống như những người vô thần, các bạn là những người tội lỗi, đang xa cách Thiên Chúa, đang né tránh người, Đức Giêsu muốn nói với các bạn: “Dù các bạn không tin nơi Chúa, không yêu Chúa, thì Chúa không bao giờ ngừng tin các bạn và thương yêu các bạn!” Như vậy, chúng ta mới hiểu những người tội lỗi đã chay theo Đức Giêsu!
Bấy giờ người con nói rắng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa”…
Nhưng người cha bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép, vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”.
Người’ cha không để cho người con nói hết câu mà anh ta đã chuẩn bị trước. Ong ban cho con mình quá sự mong muốn. Đó là một lễ cưới thực sự: áo đẹp, nhẫn đeo, giày dép, bữa tiệc, âm nhạc…
Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.
Đây là điệp khúc kết thúc hồi thứ nhất của bi kịch. Trong chốc lát, chúng ta sẽ thấy điệp khúc này có hai từ thay đổi: “con ta” thành “em con”. Chết – sống lại -bắt tìm thấy. Đối với Đức Giêsu, đây là cái chết như thế nào?
Oi đây là mạc khải bi thảm mà Đức Giêsu muốn rọi chiếu vào vùng vô thức của ta: Xa cách Chúa, là phải chết. Con thực sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới cho ta thấy thực tại đích thực. Ta có thể tưởng mình đang sống mà thực ra đã chết.
“Tiệc mừng” của Thiên Chúa! “Niềm vui, của Người! Hoán cải, đó chỉ là bước vào niềm vui của Thiên Chúa. Thế mà rõ ràng, đó là điều mà người anh cả sắp từ chối.
- Hồi thứ hai: Thái độ của người cha đối với người “con Cả”.
Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca múa, liền gọi một người đầy tớ ra hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khoẻ”. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ.
Đối với người con cả, người cha này cũng biểu lộ cùng một tấm lòng nhân hậu: “ông bước ra năn nỉ”. Kinh Thánh thường trở lại đề tài: Những hồng ân Thiên Chúa được ban tặng cách tuyệt đối nhưng không, qua đề tài người con út giành chỗ người con cả (St 2, 36, 2; Mcb 4, 26; Cn 30, 23; Hs 12, 4). Như vậy, người Pharisêụ có thể nhớ tới trường hợp GiaCóp đã chiếm chỗ của Esau, nhận gia tài mà đúng ra ông không được hưởng. Cũng vậy, “những người thợ giờ chót” sẽ thay chỗ những người đầu tiên “làm vườn nho” (Mt 20, 18). Cũng như thế, “người hàng chót sẽ lên hàng đầu (Lc 13, 30, 1; Cr 15, 18). Y như vậy “dân ngoại sẽ thay thế cho dân được tuyển chọn: Đó là quyền tuyệt đối và tình yêu nhưng không của Thiên Chúa (Rn 9, 30). Trước thái độ của Thiên Chúa như thế, không thể nói bất công được! Chúa thương yêu tất cả mọi người. “Chẳng lẽ vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức sao?” (Mt 20, 15). Lạy Chúa Cha, con sẽ tạ ơn Chúa không biết mỏi mệt vì phổ quát của Chúa. Con thường tự hỏi xem, con yêu Chúa thực sự không, nhưng con vẫn biết thương yêu con.
Câu trả lời cha: “Cha coi, con đã bao nhiêu năm trời hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng”.
Nhít vậy, người con cả cho chúng ta thấy chính mũi nhọn của dụ ngôn này: Anh ta không nhận thấy trọn vẹn Tình yêu mà anh ta đang thừa hưởng… Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con.
Qua dụ ngôn hai hồi này, chúng ta được mời gọi bước vào trong Tình yêu của Thiên Chúa… vào trong niềm vui của Người, khi thấy kẻ tội lỗi trở lại. Đó là lời loan báo cuộc trở lại của các dân ngoại, dân mới của Thiên Chúa. Một ngày kia, Luca sẽ đặt vào môi miệng Phêrô những lời sau đây, khi Phêrô nhận thấy ân sủng được ban cho viên đại đội trưởng ngoại giáo Conêliô: “Vậy Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu – Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa” (Cv 11, 17). “Không dành đặc ân, cho ai cả”. Mọi người đều được thương yêu.
Và dụ ngôn người con bị mất lại tìm thấy, được kết thúc bằng một điệp khúc vui vẻ, cũng như hai dụ ngôn trên (đọc vào Chúa nhật thường niên XXIV).
Con chiên bị mất (Lc 15, 6). Đồng bạc b.ì định mắt (Lc 15,.9).
Xin chung vui với tôi, vì tôi Xin chung vui với tôi
đã tìm được con chiên của vì tôi đã tìm được đồng quan tôi con chiên đã bị mất đó… tôi đã đánh mất…
Người con thứ (Lc 15, 24). Nói với người con cả (Lc 15, 31)
Chúng ta mở tiệc ăn mừng Phải ăn mừng và hoan hỉ
vì con ta đây vì em con
đã chết mà nay sống lại đã chết, nay lại sống
đã mất mà nay lại tìm thấy. đã mắt nay lại tìm thấy.
Chỉ có một từ thay đổi trong hai câu kết luận: Chữ “con” được thay bằng chữ “em”. Thiên Chúa là Cha, đúng vậy: Người thương yêu tất cả con cái của Người. Nhưng con người có coi nhau là anh em không? Người con cả có để cho người cha thuyết phục và bước vào “hưởng niềm vui với người cha không?
+ Dụ ngôn này chưa hoàn tất, chúng ta cần cho nó một kết luận: “Bước vào dự tiệc vui mừng với Thiên Chúa”.
Giáo phận Nha Trang – Chú Giải
“Em con đã chết nay sống lại”
BÀI TIN MỪNG (Lc 15, 1-3. 11-32).
- Ý CHÍNH:
Bài Tin-Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn người con trai hoang đàng trở về và được người cha ân cần đón nhận, để diễn tả lòng nhân từ thương xót của Thiên-Chúa đối với tội nhân biết sám hối trở về với Chúa.
- SUY NIỆM:
- “Những người thu thuế và tội lỗi đến gần Chúa”:
Theo giáo thuyết của các giáo sĩ Do Thái thì những người thu thuế và tội lỗi bị tách ra khỏi cộng đoàn tôn giáo và xã hội Do Thái. Nhưng ở đây những người này lại đến gần Chúa GiêSu để nghe người giảng. Điều này muốn nói lên rằng: Chúa Giêsu, với tư cách là Đấng Cứu Thế, Người có thể cứu giúp những người tội lỗi và chính Người là nơi nương tựa cho những kẻ bị bỏ rơi.
- “Thấy vậy, biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm”: thấy thái độ Chuá GiêSu đón tiếp những người thu thuế và tội lỗi trái với giáo thuyết của Do Thái, nên biệt phái và luật sĩ là những người chủ trương giữ luật rất khắc khe đã kêu trách Chúa Giêsu. Lời kêu trách của họ nhằm hai điểm.
- “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi”. Điều này muốn nói lên rằng những người thu thuế và tội lỗi không là thành phần của cộng đoàn tôn giáo và xã hội Do Thái, ít ra theo giáo thuyết các giáo sĩ Do Thái. Giáo thuyết này đã có câu châm ngôn như sau: Thiên Chúa yêu thương những người công chính và gớm gét những người tội lỗi nên dân Do Thái cũng phải làm thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu làm ngược lại: Người tiếp đón các tội nhân.
b, Và cùng ngồi ăn với chúng: không những tiếp đón những người tội lỗimà Chúa Giêsu còn đi xa hơn: là cùng ngồi ăn với họ. Thông thường bữa ăn diễn tả thân hữu liên đới giữa con người với nhau. Vì thế ở đây với thái độ “Cùng ngồi ăn với họ” Chúa Giêsu cho thấy rằng Người muốn hiệp thông với chính những người tội lỗi.
- “Bây giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này”:
Để minh chứng lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, Chúa Giêsu đã dùng ba dụ ngôn sau đây:
– Dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15, 4-7).
– Dụ ngôn đồng bạc bị mất (Lc 15, 8-10).
– Và dụ ngôn tình phụ tử (Lc 15, 11-32).
Phụng vụ hôm nay không ghi lại hai dụ ngôn trên mà chỉ ghi lại dụ ngôn thứ ba về tình phụ tử, tức là dụ ngôn người con hoang đàng trở về.
- “Người kia có hai người con trai”:
Những nhân vật nêu ra ở đây có tính cách ám chỉ:
– Người kia tức là người cha: Am chỉ Thiên Chúa.
– Người con cả: ám chỉ dân Do Thái, cách riêng các luật sĩ và biệt phái.
– Người con thứ: ám chỉ người có tội.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này để nhấn mạnh về tình phụ tử, tức là lòng nhân từ thương xót của thiên Chúa. Người yêu thương mọi người, cả kẻ có tội, và vì vậy Người đòi hỏi dân DoThái, thời bấy giờ nói riêng và chúng ta ngày nay nói chung, phải biết đối xử với nhau theo cách thế cuả Người đã đối xử với chúng ta là những người có tội.
- “Thưa Cha, xin cha cho con phần gia tài…”:
– Việc người con thứ xin chia gia tài trong lúc người cha còn sống là một thái độ bất trung bất hiếu, vì khi còn sống người cha không buộc chia gia tài cho con.
6.“Người cha liền chia gia tài cho con”:
Tuy rằng không buộc chia gia tài cho con lúc còn sống, nhưng ở đây người cha chia ngay, không do dự, không ngăn cản khi người con xin: Điều này chứng tỏ người cha tôn trọng sự tự do vì thương con. Điều này muốn diễn tả Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người ngay khi con người bất trung với Người vì Người luôn trung thành với tình yêu thương.
- “It ngày sau, người con thu nhặt tất cả…”:
Ở đây muốn nói lên thái độ bất trung của người con vì lợi dụng tình thương của người cha để thỏa mãn ý riêng của mình và đồng thời làm mất đi cái hiệu qủa của tình thương ấy qua cử chỉ tiêu sài phung phí hết tiền của. Câu này muốn ám chỉ những hành vi xấu sa của kẽ có tội là làm mất những ơn Chúa ban.
- “Khi nó tiêu sài hết tiền của…”:
Ơ đây muốn nói đến những khổ cực hiệu quả của chính sự bất trung bỏ nhà ra đi.
– Chăn heo: Đối với người Do Thái chăn heo là một điều sấu hổ, mất phẩm giá vì heo là một con vật ô uế (Đnl 14, 8). Ơ đây muốn nói kẻ tội lỗi làm nô kệ cho ma quỷ thì không còn phẩm giá của con cái Thiên-Chúa nữa.
- “Bây giờ nó hồi tâm lại…”:
Đây là tâm trạng của một người ý thức lại về chính bản thân mình.
Nhớ đến sự xung túc khi còn sống ở trong nhà cha mình, ám chỉ đến người tội lỗi ý thức được hạnh phúc trong sự chăm sóc đầy tình thương của Thiên-Chúa.
Sự tưởng nhớ này đánh động ý muốn quay trở về nhà cha mình. Ơ đây muốn nói: Chính sự nhận biết lòng nhân lành thương xót của Thiên-Chúa mà tôi nhân được thúc đẩy ăn năn thống hối trở về với Thiên-Chúa.
- “Thưa Cha con đã lỗi phạm đến Trời, đến Cha”:
Tội nhân nhận ra sự xấu xa của tội lỗi là xúc phạm đến Thiên-Chúa và con người.
. “Con không đáng được gọi là con Cha nữa”
III. ÁP DỤNG:
- Áp dụng theo Tin-Mừng:
Trong tâm tình mùa, Giáo Hội muốn dùng bài Tin-Mừng này như là lời khích lệ, và mời gọi chúng ta tin nhận vào lòng nhân từ thương xót của Thiên-Chúa, để thực hành ăn năn sám hối và biến cải cuộc sống mỗi ngày cho phù hợp với danh nghĩa người kitô hữu, con cái của Thiên-Chúa.
- Áp dụng thực hành:
- Nhìn vào Chúa Giê-su:
- Xem việc Người làm:
Chúa Giê-su đón tiếp những người thu thuế và tội lỗi là những hạng người mà người Do Thái từ chối, hất hủi và kỳ thị. Noi gương Chúa, chúng ta lấy tinh thần quảng đại, tha thứ để đón tiếp những người xấu số, những người bị bỏ rơi, và cả những người đang khó sống với mình nữa.
Chúa Giê-su cùng ngồi ăn uống với người tội lỗi: chúng ta cần có thái độ hoà đồng, cộng tác và liên đới với những người “xem ra” có tội với mình, để tạo bầu khí hoà giải, thương yêu và thăng tiến tha nhân.
Chúa Giê-su đã lấy dụ ngôn người con hoang đàng trở về để dạy ta có lòng nhân từ thương xót đối với tha nhân.
+ Người cha chia gia tài cho con: tôn trọng tự do của tha nhân, dù họ là người xấu xa đến đâu đi chăng nữa.
+ Người cha chờ đợi con trở về: có ý hướng ngay lành muốn thăng tiến tha nhân.
+ Người cha hôn và ôm con: quảng đại tha thứ và đón nhận tha nhân.
+ Người cha đón tiếp con: nhìn nhận tha nhân như người đáng mến đáng thương để sống hoà đồng với họ.
+ Người cha mở tiệc ăn mừng: bớt thù thêm bạn, đó là niềm vui vì đó là nơi nương tựa trên đường đời.
- Nghe lời Chúa nói:
Chúa nói với ta qua thái độ của người cha đối với người con thứ và con cả:
Chúng ta ăn mừng vì con ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy; lời này khích lệ an ủi và đánh động ta phải mau mắn ăn năn và sám hối, biến đổi đời sống mỗi ngày.
“hỡi con, con luôn ở với cha và mọi sự của cha đều là của con”: lời này có tính cách thức tỉnh chúng ta ý thức sự hiện diện của Chúa, ơn Chúa quan phòng và những phương tiện Chúa ban cho ta qua Giáo Hội, để ta an tâm phấn khởi và hạnh phúc trong Chúa.
- Nhìn vào người con hoang là hình ảnh kẻ có tội:
- xin chia gia tài:chúng ta lãnh ơn Chúa nhưng rồi tiêu xài phung phí vì không biết dùng ơn đó để sinh lời cho phần rỗi tức là thánh hóa đời sống.
- “Nó hồi tâm và tự nhủ”: khi xa Chúa vì sự khô khan và sa ngã vì yếu niềm tin…chúng ta được tiếng lương tâm thúc đẩy làm ta nhớ lại tình thương của Chúa và nhận biết sự tác hại của tội để sám hối ăn năn.
- Con đã phạm đến trời và đến Cha:ý thức được lỗi lầm, khuyết điểm và tội lỗi của mình là xúc phạm đến Chúa và tha nhân.
- Vậy nó ra đi và trở về với cha nó:sám hối trong tâm tình được biểu lộ bằng hành động; thú tội và biến cải đời sống.
- Nhìn vào người con cả:
- Anh liền nổi giận và quyết không trở về nhà.Lòng ganh tỵ ghen ghét, buồnbực với tha nhân làm sa sút tinh thần đạo đức. Vì do lòng hận thù ghen ghét, buồn bực với tha nhân mà bỏ bê những việc đạo đức “không đi nhà thờ nữa”.
- Cha anh ra xin anh vào: Dù đang ở trong tình trạng có vẻ đạo đức như chu toàn mọi giới răn Chúa và Giáo Hội, nhưng Chúa vẫn kêu mời ta thánh hóa bản thân mỗi ngày một hơn, chứ không được tự mãn với một số việc đạo đức tầm thường bên ngoài.
Chúng ta đừng cậy dựa vào những danh nghĩa mình đang có như: Có đạo, đạo gốc, người tông đồ, tu sĩ, giáo sĩ …để rồi đòi hỏi Chúa ban đặc ân hơn những người khác, áp dụng vào lời:
- “Đã bao năn con hầu hạ cha, không trái lệh cha một lần nào”.
ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE SÀI GÒN
Địa chỉ: Số 06, Tôn Đức Thắng, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh
Copyright © CHỦNG SINH KHÓA 10